[800 ngày] Chương 9

Ngân hạnh vàng. Lá sấu rụng

Đích thị là mùa thu. Nhiệt độ chợt giảm đột ngột vào một sớm sương mù.

Tôi ra khỏi nhà với chiếc áo khoác giữ nhiệt sờn mép. Mới sáu giờ sáng, tàu không đông. Tôi chỉ kịp mua vội một miếng bánh bông lan trong cửa hàng tiện lợi dưới ga tàu. Theo quy tắc ứng xử nơi công cộng ở Nhật, ăn uống khi đang đi đường hay là đang đi tàu đều bị coi là bất lịch sự như nhau. Họ chỉ ăn trong phạm vi quán ăn, hoặc lúc dừng lại và tìm được một vị trí thích hợp – quy tắc này áp dụng luôn cả với các loại món ăn đường phố. Tiếc thay tôi không phải người Nhật, chỉ có thể gửi lời xin lỗi chân thành đến mấy ông bà lão sáng sớm nay tình cờ cũng có mặt trên khoang tàu này – vì đã phải nhìn một đứa gaikoku-jin ăn uống nhồm nhoàm suốt mười hai phút.

Tàu đỗ lại ở Shinagawa, khách lữ hành chen nhau ở lối ra. Có mấy bà cụ đảo mắt nhìn về phía tôi, sau đó quay đầu vội vội vàng vàng đi mất. Xem tốc độ bỏ chạy của bọn họ kìa, giống như thời trẻ đã từng là vận động viên chạy tiếp sức. Tôi là người cuối cùng rời tàu. Bước ra khỏi khoang, đập vào mắt chính là một màu vàng ươm tựa nắng. Màu lá ngân hạnh chuyển vàng, cũng là màu của mùa thu. Một con quạ đậu trên hàng rào ngăn cách với đường ray tàu, mở con mắt đen nhìn tôi chăm chú. Một suy nghĩ bỗng nhiên bật ra trong đầu: Không biết quạ ở đây có nhận ra tôi là người nước ngoài không nhỉ?

Như mọi ngày, Rùa luôn là người đến cửa hàng sớm nhất. Lúc tôi thay xong bộ đồng phục làm bếp, cậu ấy đã nấu chín một nồi cơm.

“Hôm nay anh đẹp trai ở bên Meguro cũng tới đó, ổng vào ca 9 giờ.”

“Ừ. Nhìn thấy rồi.”

Tôi thấy tên Sarl trên bảng thời gian biểu hôm nay. Đã ba tuần tôi không gặp anh ấy rồi, không nhắn tin, không nói chuyện. Tôi đã nghĩ đến chuyện có khi nào anh ấy không muốn gặp tôi nữa… Nhưng mặc kệ anh ấy có muốn gặp tôi hay không, chúng tôi vẫn phải gặp nhau, vẫn phải làm việc cùng nhau hơn bốn tiếng đồng hồ. Trùng hợp hôm nay tôi, Sarl và Rùa đều tan làm cùng một lúc, bởi vậy Rùa – đã lâu không được đi ăn – liền đề xuất một bữa pizza cho ba người.

Tôi hơi do dự.

“Chị phải về nhà à?” – Rùa hỏi – “Giờ này còn sớm mà?”

“Cũng không có việc gì, nhưng mà sắp hết tiền rồi.” – Khi bạn muốn từ chối một lời mời đi chơi mà không thể giải thích được lý do cụ thể thì cứ nói bạn hết tiền là được, áp dụng cho mọi tình huống.

“Lâu lâu đi ăn có bữa thôi à, hết tiền thì em bao nè.”

Thấy chưa, dù có thể từ chối hay không, bạn cũng không thiệt.

Chúng tôi tới một tiệm món Ý đơn giản Saizeriya ngay trong trung tâm thương mại đối diện ga tàu. Tôi và Rùa nói tiếng Việt, trong khi cậu ấy chỉ có thể nói chuyện bằng tiếng Nhật với Sarl, còn Sarl và tôi thì sử dụng tiếng Anh để giao tiếp – tạo thành một tổ hợp ba người hết sức kỳ quặc.

“Nghe nói anh vừa về nước một tuần, chuyến đi thế nào?” – Rùa hỏi.

“Mọi thứ đều tốt. Tôi có mang tới Nhật một ít mứt quả chà là làm quà cho mọi người, tiếc là hôm nay không đem theo rồi.”

Rùa rất tò mò về đất nước của Sarl. Cậu ấy sinh ra trong một gia đình nông thôn bình thường ở miền Tây sông nước, từ nhỏ đến giờ chưa có nhiều cơ hội ra ngoài ngắm nhìn thế giới bên ngoài. Thời gian sinh sống tại Nhật của cậu đa số cũng chỉ có đi làm, đi học, rồi lại đi làm. Chẳng có ngày nào cậu ấy không có mặt ở quán cơm.

“Nhưng chẳng phải anh đang đi học sao? Bây giờ đang trong học kỳ, có việc gì mà anh phải về nước thế?”

Sarl nhìn tôi, trả lời bằng một câu tiếng Nhật phức tạp mà tôi nghe không quá hiểu.

“Ồ, thật ư? Vậy thì chúc mừng anh nhé!” – Rùa ở bên cạnh tôi kinh ngạc thốt lên, đoạn, quay sang giải thích cho tôi bằng tiếng Việt – “Anh ấy nói… anh ấy vừa mới đính hôn.”

Tôi ngẩng đầu lên, một cô phục vụ người da màu đem ba đĩa thức ăn tới.

“Xin phép quý khách, bàn số 24 một cánh gà sốt teriyaki, một pizza nấm hành và một mì ý sốt kem thịt xông khói. Chúc quý khách ngon miệng.”

Tôi gật đầu cảm ơn người phục vụ, đẩy khay pizza nấm hành mà Sarl thích nhất tới trước mặt anh ấy.

Congratulations. Anh đã dự tính khi nào thì sẽ kết hôn chưa?”

“Hiện tại thì tôi chưa biết. Gia đình tôi dự kiến muốn cử hành hôn lễ vào hè năm sau, sau khi tôi tốt nghiệp.”

Rùa hỏi:

“Anh có định trở về không? Hay là sẽ định cư ở bên này?”

“Tôi thực sự muốn ở lại, nên tôi đang đi tìm một công việc toàn thời gian ở Tokyo. Nếu như được nhận, sau khi cưới tôi sẽ đưa cô ấy tới đây.”

Tôi chọc một miếng thịt ba chỉ xông khói màu hồng nhạt đưa lên ngắm nghía:

“Cô ấy cũng là người Muslim ư?”

Sarl nhìn tôi cắn miếng thịt ba chỉ, gật đầu.

“Đương nhiên rồi. Em cũng biết đấy…”

Chúng tôi đều nói tiếng Anh, Rùa không hiểu được. Cậu ấy ở một chỗ chăm chú gặm cánh gà, có lẽ không biết chúng tôi nói gì, cũng có thể cho rằng chuyện chúng tôi nói chẳng có gì quan trọng, chỉ là rất đúng lúc xen ngang:

“Anh có ảnh của chị ấy không? Em nghe nói con gái ở Trung Đông xinh đẹp lắm.”

Sarl cười:

“Không nhiều.” – Vừa nói anh vừa mở khóa điện thoại. – “Hôm đó tôi có một bức ảnh chụp chung với cô ấy.”

Rùa đón lấy điện thoại trên tay anh, còn giơ sang cho tôi nhìn, sau đó giơ ngón tay cái, cố gắng vận dụng vốn tiếng Anh hết sức kém cỏi của cậu ấy khen một câu:

Beautiful.”

Cô gái có khuôn mặt trái xoan cực kỳ sắc nét, cái mũi cao và đôi mắt sâu vô cùng đặc trưng của vùng Trung Đông. Nhưng không giống Sarl, đôi mắt cô ấy có màu xanh lục bảo, trong trẻo như nước hồ Kawaguchi mùa xuân. Trong bức ảnh, cô ấy mỉm cười, lộ ra một bên lúm đồng tiền rất duyên. Sarl cũng có một bên lúm đồng tiền như thế.

“Anh quen cô ấy lâu chưa?”

Lần này anh thoáng ngẩn người. Không biết anh nghĩ tới cái gì, rốt cuộc hồi lâu sau anh mới nhún vai, trông anh hơi bất đắc dĩ.

“Tôi mới gặp cô ấy một lần duy nhất.”

Tôi đặt dao dĩa xuống, đứng dậy rời khỏi bàn.

“Ủa chị đi đâu vậy?”

“Lấy thêm trà thôi.”

Chỉ một lần duy nhất. Vậy mà. Duy nhất.

***

Mie hẹn tôi ở Icho Namiki, đại lộ lá vàng cực kỳ nổi tiếng. Đã hai tháng Mie không thay avatar trên instagram, và vì mùa đông đã sắp tới, nên chị ấy vô cùng muốn có một bức ảnh xinh đẹp lưu lại mùa thu này.

Icho Namiki nằm đâu đó giữa những tòa nhà văn phòng và khu kinh doanh sầm uất của Aoyama và công viên Meiji Jingu, thường được biết đến là một trong những con đường đẹp nhất của Tokyo. Xuống tàu ở ga Aoyama Itchome, đi bộ chỉ chừng năm phút, tôi đã nhác thấy những hàng ngân hạnh tỉa hình chóp nón vàng rực rỡ trong nắng. Có một lễ hội đang được tổ chức ở quảng trường lớn cuối đường, nơi dẫn vào Phòng trưng bày và tưởng niệm Meiji (Minh Trị), vì thế trên đại lộ dày đặc khách tham quan bao gồm cả người Nhật và người nước ngoài. Tôi rốt cuộc tìm thấy Mie trên một vỉa hè gần đó. Cây bạch quả được trồng hai bên vìa hè khéo léo đan những cành cây con vào nhau tạo thành một hàng mái vòm vàng ươm. Mie đứng ở một chỗ vắng người, đang cố gắng giơ một chiếc lá vàng lên để chụp ảnh tự sướng.

“Em! Cuối cùng em cũng đến. Chụp ảnh cho chị.”

“Có mỗi mình chị thôi à? Em tưởng chị đi cùng Zhang?”

“Nó phải làm thêm đến 7 giờ tối, nên chị em mình cứ đi chơi thôi. Bao giờ nó về thì mình đi ăn nhé.”

Tôi không phản đối. Dù sao tôi cũng không phải là người có lập trường trong vấn đề ăn uống vui chơi cứ để cho Mie quyết định là được rồi.

“Dạo này em đi làm ít thế?”

“Chị đừng nói chuyện, hơi cúi xuống đi. Dạo này em hơi mệt, đang không biết có nên đi tìm việc mới không nữa.”

Mie chụp xong kiểu ảnh, đổi sang dáng đứng khác.

“Sao thế? Vất vả quá à? Hay là em tìm thử công việc nào gần nhà mình thôi. Chị thấy đầy chỗ tuyển người. Tiệm Onigiri dưới phố đi bộ lương những ngàn mốt một giờ đó.”

“Kiểu này không đẹp, hay chị xoay nghiêng người đi, một xíu thôi. Chắc phải qua đợt này mới tìm việc được. Em còn phải tập trung viết xong luận văn trước kỳ nghỉ lễ Noel.”

“Ừ, vậy cũng được. Có cần chị với Zhang giúp gì không? Số liệu của em ổn rồi chứ?”

“Em sửa đề tài rồi chị, giáo sư cũng đồng ý.”

“Vậy còn anh bạn kia của em thì sao? Anh bạn người Hồi giáo ấy?”

Tôi trả điện thoại cho Mie, xoay người chạy về phía trước mấy bước.

“Chẳng sao cả, anh ấy sắp lấy vợ rồi.”

Cho nên, tôi cũng không biết lúc ấy Mie có biểu cảm thế nào.

“Chị… chụp cho em một tấm ảnh ở góc này, giống như lúc nãy em chụp cho chị được không? Em chỉ cần lấy bóng lưng thôi.”

Lát sau chị ấy gọi:

“Được rồi, em xem thử đi xem có được không? Không thì chụp lại.”

Chỉ là bóng lưng mà thôi, có gì mà không được chứ? Mie lại hỏi:

“Nhưng mà An này, tại sao lần nào đi chụp ảnh em cũng chỉ chụp từ đằng sau?”

Tôi chỉ cho Mie đường hầm lá vàng đẹp nín thở trước mắt, hỏi:

“Chị có thấy cảnh tượng này giống cái gì không?”

Chị ấy lắc đầu. Tôi chẳng mong chờ gì ở khối kiến thức xã hội của Mie cả, đến đảo Hải Nam ở đâu chị ấy cũng không biết – song, vẫn là đột nhiên muốn hỏi.

“Mùa thu vàng của Levitan đấy.”

Mie nghĩ nghĩ một lúc, lập tức quên mất câu chuyện về chàng trai Hồi giáo:

“Mùa thu vàng là cái gì? Levitan là ai?”

“Anh biết không? Hà Nội mùa thu, cũng có những con đường ngập sắc lá vàng. Khi anh tới, em dắt anh đi xem hết.”

Như mọi lần, tôi đón anh ở đầu phố Quang Trung. Nửa năm không gặp, Huy gầy đi nhiều, khuôn mặt cũng sạm lại. Tôi biết thời gian này công việc của anh rất bận rộn, phải khó khăn lắm mới có thể sắp xếp thời gian bay ra Hà Nội. Huy nói rằng vì anh đã không thể trải qua sinh nhật hai mươi tuổi của tôi, vậy anh muốn cùng tôi ngắm Hà Nội vào những ngày đẹp nhất.

Chúng tôi dừng xe ở một quán café bụi trên phố Phan Đình Phùng. Chị chủ quán cho chúng tôi hai chiếc ghế đẩu và một cái bàn bé con con, ngồi ngay trên vỉa hè xao xác lá sấu rụng. Huy tự gọi một ly đen đá, còn của tôi là một tách trà Dilmah bạc hà.

Chiều thứ Hai, nữ sinh trường Phan Đình Phùng ríu rít tan học. Những tà áo dài trắng phấp phới giữa đám lá vàng bay, xen vào vô vàn những tiếng cười đùa không một chút tạp niệm. Thấy Huy chống tay ngắm nghía thật lâu, tôi bèn cười hỏi:

“Đẹp không?”

Anh nghiêng đầu sang phía tôi, tủm tỉm đáp:

“Không đẹp bằng em.” – Nói đoạn anh dừng một lát, băn khoăn hỏi – “An này, trước đây em đi học, có mặc đồng phục áo dài không?”

“Không có. Trường em dùng đồng phục vest kiểu Hàn Quốc. Hết ba năm phổ thông, có lẽ mặc áo dài đúng một lần.” – Tôi lắc đầu – “Nhiều lúc đi học ở một ngôi trường quá hiện đại cũng chưa chắc đã tốt. Trong tưởng tượng của em, những năm phổ thông nên là bảng đen phấn trắng, một ngôi trường cổ kính sơn vàng, có sân trường rợp bóng cây xà cừ cổ thụ kia. Lớp em có một cô nàng học giỏi dịu dàng, lớp bên lại có một anh bạn mặc sơ mi trắng. Nếu như có thể mỗi chiều lại thấy anh bạn ấy chở cô nàng về nhà trên một chiếc xe đạp, thì không còn gì tốt bằng…”

Huy khuấy cốc đen đá một cách chăm chú, chờ tôi nói hết.

“Nhưng mà… không có gì cả. Năm em vào phổ thông, trường em chuyển đến cơ sở mới, một tổ hợp gạch, sắt và lồng kính rộng, đẹp, hiện đại, cái gì cũng có, chỉ không có cây xanh. Đương nhiên là vế đằng sau càng không có.”

Anh bật cười.

“Khi nào em tới Sài Gòn, anh mang em đến trường của anh. Nghe mọi người nói trường xây từ thời thuộc Pháp. Có kiến trúc cổ kính, có cả cây cổ thụ, chắc chắn là em sẽ thích. Năm đó bọn anh thường đứng trên tầng, thấy cô nào mặc áo dài xinh xinh dưới sân là sẽ gấp máy bay giấy thả xuống. Anh cũng từng thả máy bay giấy cho một cô…”

“Rồi người ta có đồng ý anh không?”

Huy không giấu tôi, anh gật đầu.

“Có.”

“Vậy thì tốt hơn em rồi. Hồi phổ thông em thích một bạn cùng lớp, thích liền sáu năm, thích từ cấp hai đến tận lúc vào đại học. Nhưng mà đến tận bây giờ người ta vẫn không biết.”

“Ủa, vậy sao em còn không tỏ tình?”

Tôi bất đắc dĩ nhìn anh:

“Người ta đã có bạn gái.”

Huy đột nhiên nín lặng. Anh nhìn tôi, nhìn rất lâu, nhìn đến nỗi như muốn nhấn chìm tôi vào đôi mắt đen huyền của anh ấy.

“Thực ra em đâu cần phải như vậy?”

Năm ấy tôi, một cô sinh viên năm thứ ba không muốn lớn, đâu có nghĩ gì nhiều.

“Nhưng em chính là như vậy đấy.”

[800 ngày] Chương 8

Khoảng trống

Một ngày thứ Bảy đầu tháng Chín, Chôm Chôm bỏ chúng tôi mà đi. Thời gian muộn hơn kế hoạch ban đầu hẳn nửa tháng – là kết quả của cuộc điều đình với Mie và hộp bánh sinh nhật muộn của tôi, nhưng con bé vẫn không ở lại. Kéo dài thời gian chỉ để cho chúng tôi có thời gian chuyển tên hợp đồng điện nước ga, và nhanh chóng tìm thêm một người mới ở ghép vào nhà. Đáng tiếc là đến cuối cùng tôi và Mie vẫn chẳng tìm được ai cả, nên đành ngậm ngùi ném thêm một vạn rưỡi hàng tháng, cho đến khi hợp đồng nhà hết hạn, hoặc chính chúng tôi cũng sẽ chuyển đi.

Chôm Chôm thuê được xe vận chuyển của một người bạn Nigeria học cùng trường. Vào thu thời tiết mát mẻ, mỗi sáng sớm còn nhuốm chút lạnh đầu mùa. Xe của Chôm Chôm đến từ sáu giờ sáng, tôi và Mie khoác áo ngoài ra đón xe. Khuân khuân vác vác một hồi đến tận tám giờ, Chôm Chôm khoác ba lô nhìn chúng tôi lại một lần, rồi dứt khoát lên xe. Từ nay về sau, tiếng nhạc underground ngoài cửa sẽ không quay lại nữa.

Trong nhà tự dưng trống ra một phòng.

“Em có muốn dọn vào phòng Chôm Chôm không?”

“Chị có muốn không? Em thế nào cũng được.”

“Hay là thế này, mình chuyển bàn học, giá sách với ghế lười của chị sang bên đó đi, coi như một phòng để học, với có khách thì khách sẽ ở bên đó.”

Mie nói là “khách”, tôi tự động gắn thêm tên của Zhang. Nhà tôi ngoài Zhang ra còn có thể có vị khách nào?

“Em thì nghĩ chị nên dọn tủ quần áo của chị sang, Mie ạ.”

Mie vỗ tay đến bộp một cái, vẻ mặt cứ như được khai sáng.

“Đúng. Sao chị không nghĩ ra sớm hơn nhỉ?”

Mie có hai tủ quần áo, một chiếc là tủ âm tường mà mỗi phòng ngủ kiểu Nhật đều thiết kế sẵn, một chiếc là chị ấy mua thêm từ Amazon. Tuy vậy Mie vẫn phải để thêm ba thùng quần áo lẻ cỡ bự bên ngoài, và chiếc tủ mua trên Amazon của chị ấy thì nghiêng hẳn về một bên vì quá nặng. Tháng trước nó đã suýt đổ một lần, Zhang phải dùng keo con chó gắn lại một thanh treo bị gãy, mới chống đỡ được đến hôm nay.

“Em hôm nay có phải đi làm không?”

“Không chị ạ.”

“Tốt. Chẳng mấy khi có ngày được nghỉ, hay là chị em mình dọn nhà xong buổi sáng, chiều mình đi onsen rồi đi ăn tối nhỉ?”

Tôi suy nghĩ một lát, lắc đầu.

Chẳng mấy khi tôi có dịp từ chối Mie.

Tôi xuống tàu ở Shibuya lúc năm giờ chiều. Ngoài tiệm cơm, Sarl còn đi làm part time ở Harajuku nữa, từ Ikebukuro tới đó gần hơn Shibuya một ga tàu, nhưng chúng tôi không bao giờ chọn Harajuku. Anh làm việc trong một tiệm giặt là, làm rất nhiều, hầu như ngày nào cũng đi làm, mỗi ngày đi làm đều trên bốn tiếng, giống như Rùa lúc nào cũng có mặt ở tiệm cơm. Tôi tự hỏi vì sao Sarl phải vất vả như vậy, nhà anh có điều kiện hơn Rùa nhiều. Khi tôi hỏi anh điều đó, anh chỉ đơn giản nói: có lẽ vì anh cũng không còn chuyện gì khác để làm nữa.

Cũng phải, sao tôi lại quên mất, cuộc sống của Sarl luôn rất đơn giản.

Không giống tôi, tôi chẳng biết mình muốn gì.

Mỗi ngày tỉnh giấc đều cảm thấy có quá nhiều việc cần làm, nhưng rồi ngày trôi qua, lại chẳng làm được gì cả. Riêng về chuyện này, tôi rất ngưỡng mộ Mie, chị ấy quản lý thời gian rất tốt. Chị ấy luôn làm hết các điều chị ấy muốn làm, dù chỉ những việc chị ấy muốn thường chỉ là ngồi ăn hết một túi hạt óc chó vị mật ong.

Chúng tôi ăn tối cùng nhau ở một tiệm pizza kiểu Nhật. Tôi đã biết Sarl không thể ăn thịt, không ăn được hải sản – đặc biệt là hải sản sống. Nhưng rồi tôi phát hiện ngay cả thịt gà anh cũng không thể ăn. Người theo đạo như anh chỉ có thể ăn thịt Halal, loại thịt được giết mổ theo một nghi thức riêng của Hồi Giáo. Trước khi mổ, đồ tể phải kêu tên thánh Allah, dụng cụ giết mổ cũng phải được mài thật sắc để đảm bảo cho con vật không phải chịu quá nhiều đau đớn. Thịt của động vật đã chết, hoặc bất tỉnh trước khi mổ đều không được coi là Halal. Nhật Bản là một đất nước công nghiệp, phương pháp chích điện gây ngất của họ sẽ không được chấp nhận. Đây cũng là lý do vì sao mỗi lần cùng tôi ra ngoài, anh đều chọn món chay. Sarl đặc biệt thích ăn hành tây, món khoái khẩu của anh là pizza nấm hành.

Tôi không bao giờ hiểu được món chay, mặc dù cả nhà tôi đều là Phật tử. Nhưng chúng tôi không ăn chay. Tôi có bệnh thiếu máu, còn mẹ tôi thì bị huyết áp thấp, rất khó để cắt giảm lượng protein trong khẩu phần hàng ngày. Thực ra tôi cũng không biết chúng tôi có phải Phật tử hay không.

Nói thì như vậy, tôi biết chẳng qua là vì tôi thích ăn thịt.

“Một cô bé cùng nhà em hôm nay đã chuyển đi rồi.”

“Là người mà em đã kể với tôi đó sao? Cô bé la hét?”

Không hiểu tại sao Sarl lại nhớ Chôm Chôm bằng biệt danh này. Có lẽ hôm đó tôi đặc biệt kích động, khiến cho ấn tượng của anh về con bé không được tốt. Tôi đang suy nghĩ làm sao để sửa lại hình ảnh về Chôm Chôm với anh, lại nghe Sarl nói:

“Ồ, ít nhất trong nhà sẽ yên tĩnh.”

“Đột nhiên nhà lại rộng ra một chút, em cảm thấy hơi không quen.”

“Đừng lo, An. Chẳng có thứ gì mà em không thể quen được cả.”

Tôi gắp một đũa salad cá ngừ.

“Cũng phải. Giống như em, thế mà đã quen với việc mỗi buổi tối trước khi đi ngủ đều chờ tin chúc ngủ ngon của anh.”

Sarl buông xuống dao dĩa, đôi mắt xanh tĩnh lặng nhìn tôi.

“Nhưng An – san, em không nên như vậy.”

Tôi nuốt xuống cảm giác sợ hãi đang từ từ mọc rễ trong tim, cuối cùng vẫn không nhịn được hỏi;

“Không nên chờ tin nhắn, hay là không nên chờ anh?”

“Cả hai.”

Tối hôm đó Sarl không nhắn tin cho tôi. Chôm Chôm đi rồi, không còn ánh sáng nửa đêm len vào khe cửa, giấc ngủ vẫn không đến.

Tôi quyết định đi du lịch.

Theo lịch nghỉ lễ, cả nước đều được nghỉ bốn ngày. Nếu không tính một ngày đi làm thêm và một ngày làm đề tài, tôi vẫn có hai ngày nghỉ. Mie đi du lịch cùng Zhang – một khu tắm suối nước nóng nổi tiếng ở Gunma. Chị ấy rủ tôi đi cùng, như mọi lần, tôi từ chối. Làm bóng đèn quá nhiều sẽ bị nghiệp quật.

“Dịp nghỉ lễ này, anh có kế hoạch đi đâu chưa Sarl – sama?”

Khung chat hiện lên dấu ba chấm thật lâu, tôi cảm thấy Sarl đang do dự.

“Có vài người bạn ở Nagoya mời tôi đến. Có lẽ tôi sẽ đi Nagoya dịp lễ này. Còn em thì sao?”

“Em muốn đi đâu đó, nhưng em không biết đi đâu.”

Tôi muốn đi cùng ai đó, nhưng tôi không biết tôi có thể đi cùng ai.

“Sao em không đi Gunma cùng Mie – san? Tôi nghĩ em thích suối nước nóng, phong cảnh ở Gunma cũng rất đẹp.”

Có đôi khi không phải chúng ta không có sự lựa chọn, chỉ là chúng ta không có sự lựa chọn mà mình mong muốn. Con người là giống loài tham lam, được một chút lại muốn tiến thêm một nấc, chẳng bao giờ biết hài lòng với những thứ mình có được.

“Em muốn đi cùng anh.”

“An – san, tôi có thể đi cùng em. Nhưng tôi không nên đi cùng em.”

“Tại sao?”

Chuyến tàu chiều đưa tôi tới Motomachi Chukagai – khu phố người Hoa lớn nhất, nổi tiếng nhất Yokohama, do tôi đột nhiên thèm ăn điểm tâm. Phố đặc biệt đông vào dịp nghỉ lễ. Phong cách phố người Hoa khác hẳn những ngôi nhà sắt trầm tĩnh của Nhật Bản. Bất kể là nhà cửa hay con người đều khoác trên mình những lớp ngoài tràn ngập màu sắc âm thanh, náo nhiệt như thế, lại sống động như thế. Hương vị của hàng trăm món dimsum bốc ra từ những chiếc lồng hấp khổng lồ nhắc nhở tôi rằng tôi vẫn chưa có gì bỏ bụng từ sáng tới giờ. Và cho dù thế giới này có ngừng lại, chùng ta cũng cần phải ăn.

Không quá đói, tôi chỉ mua một hộp điểm tâm sáu loại và một ly trà sữa cho bữa tối nay.

Tháng Chín đầu thu, thời gian ban ngày đã từ từ ngắn lại. Sáu giờ chiều, mặt trời đã kịp lặn xuống mặt biển. Tôi ngồi một mình trên mũi cầu tàu Osanbashi nhấm từng miếng dimsum sò điệp, toàn bộ hoàng hôn tím ngắt thu vào trong mắt. Phía bên kia Yokohama đã lên đèn, vòng đu quay khổng lồ Cosmo Clock xòe ra từng chùm ánh sáng rực rỡ liên tục đổi màu như pháo hoa. Gió trên cảng hơi lạnh, tôi quên đem theo áo. Gần chỗ tôi ngồi chỉ có một anh thợ ảnh đang hướng ống kính về phía chân trời xa xa. Tôi tự hỏi, không biết anh ấy tìm thấy gì ở nơi mênh mông đó?

“An – san, tôi cũng có thể làm một người bạn trai tốt, có thể quan tâm em, chăm sóc em, cùng em đi ăn, đi dạo phố, đi những nơi em muốn đi, làm những điều em muốn làm…”

Sarl theo đạo Hồi, anh sẽ không cùng tôi đi chùa.

“Nhưng tôi và em khác nhau. Em có đất nước của em, tôi có tín ngưỡng của mình…”

Nhật Bản là một đất nước nhiều chùa chiền, tất nhiên chùa ở đây hoàn toàn chẳng giống với chùa ở Việt Nam. Tôi không phân biệt được những khái niệm của họ: đền, chùa, miếu, hay là thần xã. Đặc điểm chung của tất cả những địa điểm tâm linh này là đều thờ thần và Phật, xây dựng rất quy mô, bên trong điện không thắp đèn và không chụp ảnh, bất giác tạo ra một cảm giác không gian thâm nghiêm thần bí. Ở một vài nơi người ta còn thích treo một chiếc đèn lồng khổng lồ đặc trưng viết chữ Môn ngoài cửa. Tôi phải mất rất nhiều thời gian mới thuộc được hán tự này.

Tôi không biết tôn giáo của mình là gì. Mặc dù gia đình tôi thường đi chùa trong đầu năm mới. Trên giấy tờ, tôi vẫn thuộc về tín ngưỡng tự do. Nghĩ đến Sarl mỗi ngày đều dành hàng giờ để cầu nguyện, tôi cảm thấy như thế này cũng rất tốt.

Tôi chỉ hỏi lại anh ấy một câu.

“Anh có thích em không?”

Trên đường trở lại, tôi bắt gặp một ngôi miếu cổ. Trước cửa miếu tạc hai cây đèn tứ giác bằng đá trắng, dẫn vào một lối đi phủ rêu xanh, hai bên trồng đầy cây anh đào. Nếu bây giờ là mùa xuân, có lẽ ngôi miếu này cũng sẽ trở thành điểm ngắm hoa lý tưởng đấy. Song bây giờ đang là tháng chín, tới khi đông sang, anh đào chuẩn bị rụng lá rồi. Cuối lối đi đặt một cánh cổng thần đạo Torii, sau cổng là một bàn thờ đá và một tấm phù điêu không rõ đường nét. Tôi bước tới, ném một đồng năm yên vào hòm công đức bên cạnh bia, chắp tay cúi đầu.

Tôi không có gì muốn cầu nguyện, chỉ hi vọng có ai đó vẫn đang dõi theo tôi.

Mỗi lúc khủng hoảng, những đêm nằm bị áp lực đè đến không thở được, toàn thân đông cứng chỉ có thể chảy nước mắt, tôi ước gì giá như tôi cũng có Phật ở bên cạnh. Ở một thời điểm nào đó, chúng ta luôn cần có một người ở bên cạnh. Con người là những sinh vật cô đơn, nương tựa vào nhau, để bớt cảm thấy cô đơn. Bất hạnh là không phải lúc nào chúng ta cũng có thể tìm được một người để đồng hành cùng mình, đặc biệt là trong vấn đề tinh thần. Nếu như chúng ta cũng không hiểu bản thân mình, vậy ai có thể?

Cho nên, tôi tìm đến với Phật, Sarl tìm đến với Allah của anh. Chúng tôi tin rằng, trên đời luôn có một ai đó có thể thấu hiểu chúng tôi, lắng nghe linh hồn xấu xí đầy tội lỗi của chúng tôi, bao dung và chấp nhận, cũng sẽ cho chúng tôi một cơ hội để sửa sai, để được làm lại từ đầu…

[800 ngày] Chương 7

Hoa hồng đỏ

“Chị An biết gì chưa? Hôm nay có nhân viên ở bên Meguro sang làm đỡ á.”

Rùa ôm chiếc thùng bột chiên cỡ một lít, vừa ra sức ngoáy bột, vừa cà kê nói chuyện phiếm. Quy tắc trong cửa hàng là không được nói chuyện phiếm bằng tiếng Việt trong giờ làm, nhưng cửa hàng trưởng hầu như đều ngấm ngầm dung túng cho chúng tôi, nhất là vào những ngày không quá đông khách.

Tên thật của cậu ấy là Lúa. Người Nhật không đọc được tên của cậu, nên đều phiên âm thành “Rua”. Mấy người Việt Nam ở đây ai cũng gọi cậu ấy là “Rùa”.

Rùa kém tôi những bốn tuổi, nhưng đã sang Nhật được hai năm. Cũng có nghĩa là cậu ấy đi ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học. Rùa là người miền Tây, giọng nam lơ lớ thật thà. Nhiều lúc tôi thấy cậu ấy cũng thật là giống một chú rùa, bền bỉ, cần mẫn, nhưng cậu ấy rất nhanh nhẹn. Cậu ấy có một cô người yêu nhỏ ở nhà, quen nhau từ năm vào cấp ba. Yêu xa đến nay đã hai năm rồi. Mỗi lần nhìn ánh mắt cậu bé sáng rực rỡ khi nhắc đến cô gái không biết mặt nào đó ở quê hương, tôi chỉ cảm thấy trong lòng hơi gợn.

Vũ có từng mang ánh mắt như vậy mỗi khi nhớ đến tôi không?

Không phải, nên là nói: Vũ có từng nhớ đến tôi không?

Năm đó, tôi thường dẫn Vũ lái xe máy vòng quanh phố cổ.

Sống ở Hà Nội từ bé, nhưng tôi hoàn toàn không thuộc đường nội đô. Hai kẻ mù đường đưa nhau rong ruổi khắp thành phố. Một kẻ dám chạy xe, một kẻ dám chỉ đường. Thỉnh thoảng tôi lại “a” lên, hóa ra đây là phố này. Có rất nhiều tuyến phố tôi chỉ nghe tên, chưa từng ghé qua. Vũ là người đầu tiên đưa tôi tới đó. Sau này không có Vũ, tôi vẫn giữ thói quen chạy xe một mình, nhưng trong những lần đi lạc, không bao giờ có thể tìm lại con phố nhỏ kia. Kỳ lạ là tôi thậm chí còn chẳng thể nhớ được tên, giống như cung đường kia đã biến mất khỏi thế giới, những ngôi nhà, cửa tiệm tạp hóa và những gánh bún rong cũng chưa từng tồn tại. Hoặc là, chỉ là một giấc mơ tôi tự mình tưởng tượng ra mà thôi.

Vũ cũng vậy. Như một cơn bão nhiệt đới chợt đến rồi chợt đi. Mạnh mẽ, điên rồ, càn quét, tàn phá, và biến mất sau những cơn mưa. Tôi đỗ xe lại trên vỉa hè, gọi một bát bún thang. Ngày nắng sau mưa, hơi vàng.

Tôi xóa số điện thoại của anh, xóa tất cả liên lạc qua mạng xã hội cùng lịch sử trò chuyện. Hai năm yêu xa, cuộc đối thoại hơn năm vạn tin nhắn, chỉ một cái chạm tay đã xóa sạch không còn dấu vết. Khi ấy, tôi chỉ ước gì anh chưa từng xuất hiện trong đời tôi.

Thế rồi một ngày nọ, tôi nhận được một yêu cầu nhắn tin lạ lẫm: “Chúng ta có thể làm quen không?”

Anh ta nghĩ tôi là đồ ngốc à?

“Ủa chị biết rồi hả?”

Tôi bâng quơ “ừ” một tiếng, tiếp tục thái miếng lườn gà teriyaki xếp vào hộp cơm mang về.

“À không… Ý chị là… chị cũng biết vài người bên Meguro.”

“Hồi nãy em thấy trong lịch làm ghi tên ông Saru đó. Chị qua Meguro hôm nọ có gặp ổng không? Cái ông mà đẹp trai kinh khủng á.”

Tôi giật mình trong vô thức, không biết tại sao lại muốn che giấu.

“Thế à? Là cái ông cao nghều đó hả? Hôm đó ổng đeo khẩu trang, chị cũng không để ý.”

“Trời đất ơi ổng đẹp trai dữ thần luôn đó bà. Nghe nói ổng người ở cái vùng Nistan Kistan gì đó đó, cái vùng mà có ông đẹp trai bị trục xuất đó.”

Tôi nín cười.

Sarl đẹp. Từ lần đầu tiên nhìn vào đôi mắt trong veo màu xanh nhạt ấy tôi đã biết, anh ấy rất đẹp. Mặc dù tôi cảm thấy tiêu chuẩn đẹp của mình hình như cũng chẳng có tiêu chuẩn gì lắm, nhưng đến cả Rùa cũng đã khen, vậy thì Sarl chắc chắn là rất đẹp.

Chúng tôi tan làm gần như cùng lúc. Lần này Sarl cố tình đợi tôi. Đã một tuần rồi mới gặp lại anh ấy, râu trên cằm anh có vẻ nhiều lên.

“Mấy ngày vừa rồi tôi phải thức làm đề án. Đúng là bận quá không cả cạo râu.”

“Anh cũng đang đi học sao?”

Sarl gật đầu.

“Tôi học ngành nông nghiệp.”

“Ồ, em cũng đoán vậy.” – Tôi lẩm bẩm – “Anh đang học trường nào thế?”

“Em không biết đâu, ở Yokohama kia. Em đã tới Yokohama lần nào chưa?”

“Một chút thôi, có một người bạn ở đó. Em thích Yokohama. Một thành phố rất đẹp.”

“Khi nào có dịp, em nên đến bến cảng. Khu phố người Hoa ở đó cũng rất thú vị. Chắc em sẽ thích, có rất nhiều món ngon.”

Tàu Keikyu vừa đến, tôi chợt hỏi:

“Sarl – san có đói không?”

Anh đưa tôi tới một tiệm sushi đứng. Ở Tokyo rất thịnh hành loại quán ăn đứng như thế này. Không chỉ có sushi đứng, còn có mì đứng, cơm đứng, nhậu đứng, cái gì cũng có thể đứng để ăn. Có nhiều người thực sự bận rộn, bận đến mức không cả có thời gian để ngồi. Tất nhiên, quán ăn đứng còn có ưu điểm tiết kiệm không gian và cơ sở vật chất, tiết kiệm cả vốn đầu tư ban đầu.

Hình thức kinh doanh này thực sự không tệ.

“Em thích ăn sushi gì nhất?”

“Maguro – cá ngừ. Em cũng thích cả cá hồi và sò điệp nữa. ” – Tôi không do dự chỉ ngay vào menu. – “Anh thì sao?”

“Okay. Vậy anh sẽ chọn trứng, thanh cua mayonaise và dưa chuột…” – Anh nói đoạn gõ lên tấm kính chắn bếp – “Sumimasen!”

“Em tưởng anh chỉ không ăn thịt? Tại sao cá anh cũng không ăn?”

Trông Sarl có vẻ bất đắc dĩ, anh nói:

“Tôi không ăn được hải sản tươi sống. Cảm giác như mấy con cá ấy vẫn còn đang ngọ nguậy trong miệng tôi. Mà nói chung tôi không thích ăn hải sản.”

Tôi hết cách. Giống như tôi không ăn được trứng vịt lộn, hay bất kỳ thứ gì lộn, tôi chẳng có tư cách gì để nói anh. Nhưng đến Nhật mà không ăn được hải sản tươi sống thì đúng là ngang trái. Tôi âm thầm ghi nhớ lại, lần sau sẽ không mang anh đi ăn sushi.

Không ăn sushi thì có thể ăn gì bây giờ?

Sarl nói anh có một món đồ muốn đưa cho tôi, anh sẽ về nhà lấy. Chỗ này cách nhà anh chỉ một dọc sông Meguro, tôi cảm thấy mình vẫn có thể đi bộ được. Huống chi tôi luôn không muốn về nhà.

Nhưng tôi vẫn phải về nhà. Hôm nay, mang theo một bông hoa.

Một cành hoa hồng, chỉ một bông duy nhất, hoa hồng đỏ. Không biết Sarl kiếm đâu ra. Tôi chưa từng thấy tiệm hoa nào bán ra một bông hoa hồng, nên tôi nghiêng về phương án anh tự trồng nó. Tôi chưa từng thích hoa cỏ, trước đây Vũ luôn tặng tôi những món đồ thực dụng. Đây là lần đầu tiên tôi biết cảm giác như thế nào là được tặng một bông hoa.

Trong nhà không có lọ cắm hoa nào cả, nên đã để nó trong một cốc nước trước khi cánh hoa rụng lả tả. Chết tiệt, lẽ ra tôi nên giữ lại và ép khô bông hoa ấy thay vì vứt nó đi.

Món quà đáng nhớ nhất mà Vũ tặng tôi là hai chiếc vòng tay anh ấy tự tết. Vũ thích làm đồ thủ công, anh ấy luôn ấp ủ mơ ước mở một xưởng đồ thủ công cho riêng mình. Đó là ngày sinh nhật tôi, tôi phải đi cùng gia đình trong chuyến du lịch không thể từ chối, bỏ lại anh ở Hà Nội, anh chỉ có một mình.

Vũ để lại cho tôi đôi vòng tay trước thềm nhà. Lúc anh rời khỏi Hà Nội, tôi không gặp anh. Ký ức của tôi về anh vĩnh viễn dừng lại ở một ngày trước đó, anh quay người trên phố Quang Trung, trở về khu homestay rẻ tiền có mấy ông xe ôm ngồi trước cửa.

Sau này thỉnh thoảng tôi cũng đi qua chỗ ấy. Mấy bác xe ôm già vẫn ở đó, có ai nhớ được năm ấy có một đôi tình nhân luôn đứng nhìn nhau rất lâu trước cửa khách sạn kia không.

Chắc là không, ngày nào mà chả có mấy người như thế.

Giống như tôi, sau này có lẽ cũng sẽ quên mất mình đã hạnh phúc như thế nào vào lần đầu tiên được tặng một đóa hoa hồng. Sau này có lẽ tôi sẽ được tặng rất nhiều hoa hồng, cũng có thể không bao giờ được tặng hoa nữa.

Tôi về tới Ota-roku đã là chín giờ rưỡi. Ga tầm này vắng người. Cửa hàng trên phố mua sắm gần ga đã đóng cửa gần hết. Một tiệm bánh ngọt vẫn còn sáng đèn chợt lọt vào mắt tôi. Trong tủ kính bày một hộp bánh cupcake được trang trí hình mèo vô cùng dễ thương, là hộp duy nhất còn lại.

“Xin lỗi, tôi lấy hộp này được không?”

Chủ tiệm là một cô nàng buộc tóc hai bên dễ thương hệt như bánh của cô ấy, vừa cười vừa niềm nở hỏi:

“Bạn có muốn tôi bỏ túi lạnh vào hộp không? Nếu bạn mang đi xa, túi ướp lạnh sẽ giữ bánh được lâu hơn.”

“Làm ơn.” – Onegaishimasu

“Còn thiệp thì sao? Chúng tôi có cả combo nến và đĩa.”

Tôi suy nghĩ một chút, gật đầu.

“Có thể giúp tôi viết chữ “Chúc mừng sinh nhật” lên tấm thiệp này được chứ?”

“Tất nhiên rồi ạ.”

Tôi về đến nhà, vẫn là một mảnh tối om im phăng phắc. Sao tôi lại quên mất hôm nay Mie đến nhà Zhang, mỗi tuần hai lần cố định vào thứ tư và thứ bảy. Tôi trước tiên cất bánh vào một chỗ, vội vàng đi tìm cốc nước để cắm hoa. Bông hồng đỏ đặt trên cửa sổ, nghiêng mình vươn ra đón ánh sáng hắt lại từ đèn đường.

Đừng mãi cứ sống với giấc mơ tối qua

Bên tai không còn vang giai điệu buồn

Ngày mới ghé đến em sẽ thấy lối ra

Nhành hoa ai mang cho em bên thềm nhà…

Bài nhạc này, là Chôm Chôm về rồi sao?

Con bé mở cửa, cởi giầy, đi vào bếp. Phòng tôi không bật đèn, con bé cũng không để tâm. Tôi rón rén mở cửa bước ra, hai tay bưng theo hộp bánh.

“Chúc em sinh nhật vui vẻ!”

Chôm Chôm đứng hình. Em ấy nhìn hộp bánh, sau đó nhìn tôi, tầm mắt đưa qua đưa lại phải đến vài chục lần. Tôi bỗng chột dạ. Chôm Chôm sẽ không lại hét lên nữa chứ?

“Vừa rồi đi qua tiệm bánh, thấy mấy chiếc này xinh xinh, chắc là em sẽ thích.” – Tôi lúng túng nói. – “Còn có quà cho em nha. Ăn bánh xong thì bóc quà nhé.”

Chôm Chôm quay mặt đi, ngồi thụp xuống đất, bật khóc. Chẳng lẽ tôi lại làm gì sai nữa rồi?

“Sao lại như thế? Sao chị lại mua bánh sinh nhật cho em? Sao lại mua quà cho em…”

Tiếng nấc nức nở và những câu đứt quãng chen vào nhau, lặp đi lặp lại, vỡ nát. Tôi ngồi xổm xuống cạnh em, chẳng biết làm gì ngoài ôm lấy vai em.

“Được rồi, chị xin lỗi. Đừng khóc mà. Hôm nay là sinh nhật của em.”

“Tại chị đấy. Đều là tại chị đấy.”

Mie nói với tôi, ba Chôm Chôm mất rồi, mất từ khi con bé còn rất nhỏ. Thế nên em đặc biệt bám mẹ, từ nhỏ lúc nào cũng ở cùng mẹ, còn đặc biệt sợ tối. Bóng tối với em ấy giống như ánh đèn nửa đêm đối với tôi, đều là một sự tồn tại ám ảnh.

“Ừ, tại chị.”

[800 ngày] Chương 6

Mưa hè. Bánh cá. Những chiếc ô màu xanh.

Không có mô tả ảnh.

Tôi tỉnh giấc, trên đầu một mảng trắng phau. Mie dậy rồi, nửa nằm nửa ngồi nghịch điện thoại bên cạnh. Tôi híp đôi mắt sưng như quả nhót, mơ mơ màng màng hỏi:

“Chị, mấy giờ rồi?”

Cổ họng khản đặc, suýt nữa tôi đã nói không ra hơi.

“Tám giờ mười lăm. Hôm nay em không phải đi học à?”

“Hôm nay là thứ Tư.”

Thứ Tư hàng tuần là ngày diễn ra các loại cuộc họp khoa, tất cả giáo sư đều bận nên sinh viên chúng tôi được nghỉ. Học kỳ này của Mie là học kỳ cuối, chị ấy không cần đến trường, tự nhiên cũng quên luôn.

Ngoài cửa vọng vào tiếng nhạc underground mà Chôm Chôm hay nghe. Không ngủ tiếp được nữa, tôi lặng lẽ ngồi dậy. Nửa đầu bên phải đau ê ẩm, ngay cả quai hàm cũng tê nhức. Điện thoại cả đêm qua không sạc, lúc này chỉ còn 6% pin.

“Hôm qua em đi ăn nhậu với bạn à?”

Tôi hàm hồ “ừ” một tiếng. Mie đột nhiên bật cười khúc khích:

“Bảo sao em lại uống say.”

“Cũng không say lắm, em vẫn tỉnh, vẫn đi được về nhà.”

“Nhưng mà lúc chị về thấy em đang nằm dưới gầm bàn.”

“Em á?”

“Còn khóc nữa. Vừa khóc vừa cười.”

“…”

Tôi ngẩng đầu. Cửa sổ phòng hơi hé, tấm rèm màu xanh bay bay như muốn vẫy tay chào tôi. Rốt cuộc hôm qua tôi còn làm những trò ngu ngốc gì nữa?

Tôi bò ra khỏi phòng, đóng cửa buồng tắm. Giai điệu nhạc underground của Chôm Chôm khẽ lướt qua, dần dần biến mất sau tiếng khóa cửa ngoài. Nước ấm từ vòi hoa sen giội thẳng xuống đầu, tôi nhắm mắt. Ngày hôm qua, tốt nhất là hãy để nó trôi đi. Trôi hết đi. Thanh tẩy. Sạch sẽ.

“Em ăn pizza không? Hôm qua chị đi ăn với Zhang, còn nửa cái mang về này.”

“Ăn. Chị mua pizza vị gì thế?”

Tôi vuốt sạch đám nước đọng trên má, ngẩn người nhìn khuôn mặt vàng vọt trong gương. Trên thái dương nổi một cục mụn đỏ, sờ vào vừa đau vừa cứng.

“Bolognese. Thịt bò.”

Không nặn được.

“Chị thích thịt bò nhỉ.”

“Ừ, chị nghiện thịt.”

“Em tưởng hôm nay chị có lịch đi làm?”

“Ừ, chị lười quá nên chị bảo người ta là chị bận. Bên đó đầy người, báo nghỉ thì người ta đẩy sang cho người khác, chẳng sao đâu.”

Vậy chắc là… mọi chuyện cũng sẽ chẳng sao đâu nhỉ?

Mùi pizza thịt bò lởn vởn trong nhà mãi không tan. Chính Mie cũng từng nghi ngờ máy hút mùi trong nhà hoạt động không tốt lắm, đấy cũng là lý do chị ấy rước về một đống xịt phòng, nến thơm, tinh dầu đủ loại, và dùng bừa bãi đến nỗi con người khứu giác trơ lỳ như Chôm Chôm còn phải kêu đau đầu. Thật chẳng khác nào một kẻ hôi nách được tắm trong một chai Hermes Terre d’Hermes.

Tôi mở cửa ban công cho thoáng gió. Nắng có chút nhạt, mùi đất ẩm dễ chịu hơn bất cứ loại nước hoa nào. Trời bắt đầu lác đác mưa, cơn mưa đến không một chút báo trước. Mưa Nhật Bản không nặng hạt, cũng không điên cuồng như bão nhiệt đới, rả rích man mác như mưa phùn ngày đông, càng nhẹ nhàng càng thấm vào lòng.

“Ê, em có tin nhắn này.”

Sarlem J. gửi đến lời mời kết bạn.

“Xin chào An-san, hôm nay em thấy sao? Tôi hi vọng là em ổn.”

Tôi kinh ngạc nhấp vào ảnh đại diện. Tiếc là nó quá nhỏ, chỉ có thể nhìn được một nửa góc nghiêng thần thánh.

“Cảm ơn anh. Em ổn. Hôm qua thật ngại quá, vẫn phải cảm ơn anh đưa em về.”

“Khỏe thì tôi yên tâm rồi.” – Trong lúc tôi còn đang suy nghĩ xem phải tiếp tục nói chuyện gì với Sarl, anh bỗng gửi đến một tấm ảnh, trong tấm ảnh là một chiếc mũ nồi hai màu tím trắng – đúng là chiếc mũ hôm qua tôi đã đội. Anh nói – “Hôm qua lúc về ga tôi thấy nó vẫn ở trên ghế chờ. Của em đúng không?”

“Đúng là của em rồi. Anh không nhắn, em cũng không biết mình để quên.”

“Thứ bảy này em có đến tiệm Meguro không? Tôi mang cho em.”

Nếu lúc này Sarl ở trước mặt tôi, anh có thể thấy tôi đang nở nụ cười bất lực. Một tháng tới tôi sẽ không có ca làm nào ở chi nhánh Meguro. Cửa hàng trưởng rõ ràng đã có bóng ma tâm lý với việc tôi quên thanh toán đơn hàng trên mạng.

“Nhưng chiều nay em tan làm lúc bảy giờ. Anh có nhà không?”

Tuy rằng bị cắt lịch làm việc ở Meguro, nhưng may mắn cho tôi là cửa tiệm ở Shinagawa lúc nào cũng thiếu người. Khách hàng bao giờ cũng đông bất thường vào những ngày mưa, hôm nay chính là một ngày mưa như thế. Tôi và Rùa chạy bếp đến không kịp thở, thậm chí còn bỏ luôn giờ giải lao.

Tôi ôm chiếc bụng đói meo bước xuống ga Shimbamba, bắt đầu mò mẫm theo địa chỉ hiện trên ứng dụng tìm đường. Tôi không bao giờ hiểu được hệ thống địa chỉ nhà ở Nhật Bản, không hiểu được cách người ta đánh số nhà hay là đặt mã bưu chính. Nói cách khác, nếu trong tay chỉ có địa chỉ mà không có google map, thì dù có đứng trước cửa nhà người ta tôi cũng không thể biết đó là nơi cần tìm. Có lẽ là đất nước này quá tiên tiến, mà tôi thì là người tụt hậu.

Mưa đã dày hơn ban sáng. Trên đường đi bắt gặp mấy tiệm đồ ăn nhanh, tôi quyết định mua hai chiếc bánh cá Taiyaki vị phô mai kem trứng. Bánh làm tại chỗ, hơi nóng hôi hổi lan vào cơn mưa, mang theo vị ngọt nhẹ nhàng beo béo. Đồ ăn đường phố luôn ngon nhất ở những cửa hàng đường phố thực sự. Tôi sải bước nhanh, bánh nguội rồi ăn sẽ không còn ngon nữa.

Nhà của Sarl thế mà không khó tìm như tôi tưởng.

Google map đánh dấu đỏ ở cuối đường, tôi rẽ trái vào ngõ. Hai bên đường trồng một hàng rào những cây leo mà tôi không biết tên, dưới ánh đèn đường ít ỏi, ánh lên một chút sắc đỏ tía. Trước cửa dãy căn hộ màu xanh nhạt dựng một hàng hiên mái trắng. Dăm chiếc xe đạp vừa cũ vừa mới xếp thành hàng. Một chiếc xe màu đen được để tách khỏi những chiếc còn lại, tôi đột nhiên nảy ra một suy nghĩ kỳ quặc: liệu đây có phải xe của Sarl không?

“Em đến dưới nhà anh rồi.”

Không thấy anh trả lời. Tôi tần ngần một lát, rốt cuộc đánh bạo cụp ô bước lên hành lang. Bánh cá trong tay còn nóng. Về sau này, sau này thật lâu, tôi vẫn không rõ quyết định lúc ấy là sai hay đúng.

Tầng hai, phòng 202. Trước cửa có một giá treo ô màu đen, trên giá có ba chiếc ô màu xanh ba sắc độ. Tôi cắm chiếc ô trong suốt của mình vào giá, ấn chuông.

“Chào buổi tối An – san.” – Câu này anh nói bằng tiếng Nhật, sau đó chuyển ngay sang tiếng Anh – “Xin lỗi, vừa rồi tôi đang nấu ăn, không để ý điện thoại. Em chờ lâu chưa?”

Tôi xua tay.

“Em vừa mới tới. Bánh cá cho anh này, vị phô mai kem trứng.”

“Ồ, tôi thích cheese! Em có muốn vào nhà một lát không? Dù sao trời cũng đang mưa to như vậy.”

Căn hộ này thuộc loại 1R, nhỏ hơn căn hai phòng ngủ mà tôi và Mie đang thuê. Sarl ở một mình. Phòng của anh ấy cũng giống anh ấy, đơn giản và gọn gàng. Đồ đạc chẳng có gì nhiều (có ai đi ở trọ mà lắm đồ linh tinh như Mie đâu) một bộ bàn nhỏ, một chiếc ghế có đệm lưng, một cái giá sách đa năng đồng thời dùng làm kệ để đồ. Góc làm việc nhỏ này của anh ngăn cách với nhà bếp bằng một chiếc thang gỗ dẫn lên gác xép. Sarl đang dở tay với món mì Ý, cho nên anh bảo tôi tới bàn ngồi đợi anh.

Chiếc mũ nồi hai màu của tôi được treo trên tường, bên cạnh một chiếc áo polo màu xanh. Từ chỗ tôi nhìn ra ngoài có một khung cửa kính kèm ban công. Trời mưa nên anh không mở cửa. Đằng sau lớp rèm trắng lấp ló một dãy chậu cây con xanh um đặt ngoài mái hiên. Tôi chỉ nhận ra vài loại trong đó: sen đá, thường xuân và lưỡi hổ.

“An – san đã ăn tối chưa?”

Trả lời cho anh, bụng tôi kêu “ọc ọc” hai tiếng.

Sarl lấy cho tôi một phần spaghetti anh mới làm. Là sốt kem nấm. Tôi hỏi:

“Anh ăn chay sao?”

“Không. Tôi vẫn ăn thịt bò, thịt cừu và gà nữa. Nhưng ở Tokyo thật là khó để tìm được thịt gà được mổ bằng cách nhân đạo. Em muốn ăn thịt sao? Tôi sẽ làm cho em một phần thịt bò.”

Ồ, không. Thực sự cảm ơn anh. Tôi đã tự nhủ với mình trong một tháng tới sẽ không ăn thịt bò.

“Sarl – san thích trồng cây à? Em thấy anh trồng rất nhiều cây ở ngoài kia.”

“Ừ. Tôi rất thích cây, thích động vật nữa. Có điều nhà thuê không cho phép nuôi thú cưng. Hồi chưa tới đây, ở nhà tôi đã nuôi hai chú chó. Thật lâu không gặp rồi. An – san xong rồi thì ăn thêm bánh cá nhé.”

“Cảm ơn anh. Em đoán hai đứa nó sẽ rất nhớ anh đấy.”

Tôi nhận bánh. Đèn từ nhà đối diện rất sáng, hắt cả sang bên này, đủ soi rõ cả mấy giọt mưa đọng trong suốt trên mấy phiến lá con con.

Lúc này chiếc taiyaki trong tay tôi đã nguội đi nhiều rồi. Cơ mà, đủ ngọt.

[800 ngày] Chương 5

Trôi

Hoàng hôn Nhật Bản rất dài, nhất là vào mùa hè. Từ khi tắt nắng đến khi ánh sáng cuối cùng của ban ngày chìm xuống dưới đường chân trời nhấp nhô cũng đủ thời gian cho người ta no nê ngủ một giấc. Một dải màu bảy sắc ngăn cách màn trời tím ngắt và bóng đèn in trên những tòa nhà cao tầng. Thi thoảng trên nền đen lại điểm ra vài đốm sáng, giống như những bức tranh âm bản. Tàu luôn đông khi về tối, khoảng từ bảy đến chín giờ, sau đó nghỉ ngơi hai ba giờ đồng hồ trước khi chuyến tàu cao điểm cuối cùng của ngày chuyển bánh lúc nửa đêm. Ai cũng bận rộn, lại chẳng biết ai là người thực sự bận rộn.

Tôi không muốn về nhà.

Bóng đèn cao áp xen vào giữa những chóp cây ngân hạnh nhọn hoắt, từ từ lẩn trốn về phía con dốc xa xa hướng lên đồi Omori. Gần đây có một quán nhậu giá rẻ, với chỉ 80 yên cho một xiên yakitori. Trước đây Mie đã kéo tôi tới quán này một lần, vào một ngày giữa tháng ba trời bất ngờ đổ tuyết, và chị ấy thì đang cãi nhau với Zhang.

Mie và Zhang cãi nhau hai tuần một lần, mỗi lần đều là vì những lý do giống nhau: chị ấy muốn gặp Zhang hằng ngày, nhưng anh ta muốn mình cũng cần có cuộc sống riêng, có bạn bè, và có những mối quan hệ không cần thiết phải để Mie biết. Thú thực tôi khá thông cảm cho Zhang vì điều này. Còn nếu tôi là Mie, tôi sẽ chia tay anh ta.

Tôi chọn một bàn nhỏ khuất trong góc tường, mũ nồi móc lên giá treo áo ngay cạnh đó. Hầu như các quán nhậu và nhà hàng đều có móc treo đồ cho khách tới ăn, về điểm này người Nhật vô cùng chu đáo. Menu món ăn dày đặc chữ Hán tự, tôi bập bõm gọi ra vài chữ mà mình biết. Phục vụ quán hình như cũng biết tôi không giỏi tiếng Nhật cho lắm, liền hết sức nhiệt tình giải thích cho tôi bằng một thứ ngôn ngữ cơ thể khá ngộ nghĩnh. Cuối cùng tôi cũng hiểu được anh ta muốn nói gì.

“Được rồi. Vậy cho tôi một nửa vị muối, một nửa vị tare.”

Xiên nướng kiểu Nhật, nguyên liệu thì rất nhiều: thịt gà, thịt lợn, thịt bò, da, sụn, lưỡi, tim, gan, hành, nấm, tỏi… chay mặn đều có – song hương vị chỉ có hai loại: vị muối, và vị sốt ngọt tare. Với những người khẩu vị đậm, thịt nướng thường được chấm với một loại tương miso nhạt, còn tôi thì chỉ thích rắc thêm một chút ớt bột shichimi. Đây là loại ớt bột bảy vị thông dụng nhất ở Nhật Bản. Có điều, nghe nói trong thời gian thất nghiệp sau trận lũ lụt lịch sử năm ngoái, một lao động xuất khẩu người Việt Nam đã dành mấy ngày để tách các nguyên liệu khác nhau trong lọ bột shichimi để kiểm tra, từ đó phát hiện ra shichimi thực chất chỉ có năm vị chứ không phải bảy vị như nó vẫn được quảng cáo.

Chỉ là, dù năm vị hay bảy vị thì tôi vẫn chẳng nếm ra được vị gì từ shichimi, ngoài một chút cảm giác tê nhẹ nơi đầu lưỡi mà mấy người bạn Nhật Bản luôn cảm thán là “cay quá!”.

“Bạn có gọi thêm đồ uống gì không?”

Tôi đọc qua menu đồ uống toàn chữ Katakana lần nữa. Trước đó Mie từng giới thiệu cho tôi vài món Haiboru (Highball – Cao Bôi Tửu) ở đây, có cồn, nặng hơn bia nhưng nhẹ hơn rượu, còn có vị hoa quả rất dễ uống.

“Một Matcha Haiboru.”

Nó đắng hơn tôi tưởng, vừa chua vừa đắng, vị matcha đặc ngẫn quyện với cồn đọng vào cổ họng tôi nóng ran. Món đầu tiên được đưa lên thế mà lại là thịt bò. Một xiên bốn miếng thịt được cắt thành miếng hết sức vuông vức, bên trên bóng loáng nước sốt sệt sệt. Tôi tự nhiên có chút hối hận: lẽ ra không nên gọi thịt bò.

Tôi chụp một tấm ảnh đăng lên story, thuận tiện gửi cho mẹ.

“Con đi ăn món ngon đây.”

Mẹ nhắn lại cho tôi một chiếc sticker nhảy múa.

Cuối cùng thì ly matcha haiboru quá đắng, tôi uống hết ba phần tư thì đành gọi thêm một cốc bia tươi. Story có hai mươi lượt xem, chẳng ai thả cảm xúc. Đa số người ta chỉ muốn xem xem bạn đang làm gì, chứ có mấy ai thực sự quan tâm bạn đang làm gì đâu?

“Em đi ăn yakitori ở chỗ 80 yên à? Uầy, chị cũng muốn ăn.”

“Hôm nào chị với Zhang đi mà ăn.” – Tôi trả lời, sau đó tắt thông báo cuộc thoại.

Mới có tám giờ.

Khách trong quán tới đông hơn, đều là người Nhật, có người đi thành đôi, cũng có nhiều người đến một mình. Chỉ có một mình tôi là con gái mà đi một mình. Nhưng chẳng ai quan tâm đến điều đó, may thay, đây là một trong những điều tôi rất thích ở đất nước này.

Điện thoại lần nữa báo tin nhắn. Mắt tôi hơi hoa lên. Lại chuyện gì nữa đây?

“Em uống rượu à?”

Không phải Mie.

“Đi cùng với ai đấy?”

Tôi úp điện thoại xuống bàn.

“Em một mình ở bên đó phải cẩn thận. Con gái ra ngoài buổi tối không an toàn đâu.”

“Ừ, ra ngoài uống rượu đấy! Thì sao? Liên quan gì đến anh?”

Màn hình hiện ra dấu ba chấm. Người ở phía bên kia im lặng thật lâu.

“Có ai đi cùng không? Đừng về khuya quá.”

Tôi phát cáu.

“Anh thôi đi có được không? Một năm rồi, chơi trò này còn chưa chán à?”

“Em uống say phải không?”

Say cái con khỉ.

“Phục vụ! Xin lỗi, cho tôi thêm một rượu shochu!”

Anh không yên tâm về em.”

Tháng Bảy ở Hà Nội trời thường xuyên đổ mưa, mưa rào. Buổi tối hôm ấy cũng mát mẻ, trời ào ào đổ mưa. Tôi phóng xe từ Nam Thăng Long đến tận quận Long Biên để rồi vào bừa một tiệm KFC ăn tối. Sinh nhật hai mươi tuổi của tôi, mẹ đi công tác không có nhà, ba muốn mời tôi đi ăn cùng một người bạn ở cơ quan, lần đầu tiên tôi thẳng thừng từ chối ông ấy.

Tôi chẳng biết mình muốn làm gì. Chạy quanh Aeon Mall một lát rồi lượn trở về trên cầu Long Biên. Gió sông thổi lồng lộng, đột nhiên muốn dừng lại hít thở một lát. Nhiều cặp đôi cũng đứng ở đó, tôi tìm thấy hai ba ổ khóa trên lan can cầu. Hồi đó hình như có trend đem ổ khóa móc lên cầu để cầu nguyện cho tình yêu vĩnh cửu thì phải, tôi chẳng nhớ lắm.

“Em đang ở đâu?”

“Em đang ở ngoài đường.”

“Đi đường cẩn thận. Đừng về tối quá.”

“Không sao đâu. Em hóng gió một lát sẽ về. Anh ăn gì chưa?”

Bên kia gửi đến một bức ảnh.

“Anh ăn ít vậy? Có đủ no không?”

“Không sao, anh đang giảm béo. Nhưng An à, anh không yên tâm về em.”

Buồn nôn.

“Anh về mà lo cho chị vợ sắp cưới của anh ấy.”

Chẳng biết từ lúc nào mà cốc rượu của tôi đã uống hết. Bụng no căng, tôi vẫy tay với phục vụ. Ngoài ý muốn, cánh tay của tôi hơi tê, giơ lên nhìn thế nào cũng thấy xiêu vẹo.

“Tính tiền giúp mình…” – Onegaishimasu.

Phục vụ đưa lại tiền thừa và hóa đơn. Tôi đứng dậy, nhón chân từng bước chậm rãi ra về. Phục vụ đằng sau bỗng kêu lên:

“Xin lỗi thưa quý khách, bạn để quên mũ và ba lô.”

Bảo sao cứ thấy sau lưng thiêu thiếu cái gì. Tôi cúi gập người cảm ơn, liêu xiêu chạy mất.

Ga Shimbamba sơn màu xanh lục, đặc biệt mang cái cảm giá cũ kỹ gì đó rất anime, tường sơn đều ố màu rồi. Cách mười mét đặt một băng ghế gỗ sồi, vân gỗ đã bị mài đến bóng lưỡng. Ngay bên trên treo một tấm bảng cũng màu xanh lục. Thỉnh thoảng ngta sẽ dán poster quảng cáo sự kiện trên ấy. Tôi ấn tượng lắm với cái nhà ga này, chẳng vì sao cả. Hầu hết các ga tàu trên tuyến Keikyu đều thiết kế giống nhau, có chăng chỉ khác một màu sơn tường. Hình như có một lần tôi mơ thấy nó, mấy ngày đầu khi tôi chuyển tới Ota, với đường ray trên không và những đoàn tàu hơi nước biết bay giống như tòa lâu đài trên không của Howl vậy. Tôi biết nó chẳng liên quan gì, nhưng đôi khi tiềm thức hoạt động theo những cách rất khó hiểu mà chúng ta không kiểm soát được. Cũng có thể đơn giản vì nơi khác sẽ không vừa vặn có một tấm bảng trống màu xanh, không có một cô nữ sinh cấp ba mặc đồng phục thủy thủ ngồi trên ghế chờ vào một chiều hè nắng xiên qua cửa kính tàu phang phảng màu tím nhạt.

Không biết lúc này mấy giờ rồi, trong ga tàu chỉ có một mình tôi, hai mắt líu díu. Phải cố hết sức tôi mới đọc được hàng chữ “tàu nhanh” màu đỏ trên bảng hiệu nhà ga. Chuyến tàu này không dừng lại ở nhà tôi, vẫn phải đợi thêm rồi.

“An – san?”

Trên đầu tôi vang lên một câu hỏi nghi vấn, giọng nói này tôi không quen.

Nhưng mà đôi mắt sâu thẳm như đêm sa mạc kia thì chẳng thể lẫn đi đâu được. Tôi chưa kịp phản ứng đã thấy mình đứng bật dậy, nghiêng nghiêng ngả ngả cười khanh khách:

“Sarl – sama! Sao anh lại ở đây?”

“Lúc trước tôi có nói với em rồi mà, nhà tôi ở gần đây.”

“Bây giờ anh mới về à?”

“Ừ, tôi đi làm về. Em thì sao?”

Tôi nấc một tiếng, lập tức xấu hổ bịt miệng lại.

“Em vừa đi ăn về.”

“Em không uống rượu đấy chứ?”

Tôi nhấc một đốt ngón tay giơ lên cho anh xem.

“Em chỉ uống một chút thôi.”

Sarl lắc đầu tỏ vẻ hết cách. Anh ra hiệu cho tôi ngồi xuống, thế là tôi ngồi xuống. Tôi tưởng anh đi về, nhưng anh lại ngồi xuống bên cạnh tôi. Sau đó, trong lúc cái đầu còn đang ngơ ngơ ngẩn ngẩn của tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, anh đã theo lên tàu, kéo tôi xuống ở ga Ota-roku, nằng nặc bám theo như một cái bóng cho đến khi tôi mở cửa bước vào nhà.

Trong nhà chẳng có bóng người, chỉ có bóng đêm. Tôi va phải cánh cửa phòng ngủ. Không đau. Cửa sổ khép hờ hắt tới tia sáng màu vàng từ ngọn đèn đường lẻ loi. Tôi đẩy lớp rèm mờ mờ, vừa kịp trông thấy bóng người cao thẳng của anh rẽ vào đêm tối.

Khuôn mặt tôi chẳng hiểu sao ướt đẫm rồi.

[800 ngày] Chương 4

Thời điểm. Ramen. Sinh nhật trên núi.

Không có mô tả.

“Tháng sau em sẽ chuyển nhà.” – Chôm Chôm thẳng thừng tuyên bố. Đây là câu đầu tiên em nói với Mie (và tôi) sau sự kiện tắt đèn một tuần trước. Mie không biết chuyện xảy ra giữa hai đứa tối hôm đó, chị ấy chỉ “Ờ” một tiếng dường như không quá quan tâm.

“Em tìm được nhà rồi à? Chuyển đi đâu?”

Chôm Chôm có vẻ không muốn trả lời tôi, miễn cưỡng đáp:

“Bạn em đang tìm người ở ghép. Em sẽ chuyển đến gần trường học.”

Mie nghĩ nghĩ rất lâu mới chậm chạp nói:

“Sao em không nói cho bọn chị sớm? Hợp đồng nhà vừa mới gia hạn xong, bây giờ em chuyển đi bọn chị cũng không tìm được người nào để vào ở bù cả.”

Đây chính là vấn đề. Thuê một căn hộ ở Tokyo không phải chuyện dễ dàng, trả tiền thuê nhà lại càng không hề dễ dàng. Căn hộ này thuê mất tám vạn yên một tháng, cộng thêm sinh hoạt phí điện nước ga, chia ra mỗi người khoảng hơn ba vạn. Nhưng nếu Chôm Chôm chuyển đi, rõ ràng tôi và Mie mỗi người phải gánh thêm hơn một vạn tiền nhà. Con số không lớn, nhưng hoàn toàn không nhỏ với những sinh viên chỉ có thể đi làm thêm mỗi tuần 28 tiếng.

“Em cũng biết báo thế này hơi đột ngột, nhưng em nghĩ kỹ rồi. Năm nay em phải đi học nhiều, chuyển đến gần trường sẽ tiện đi lại hơn.”

Chôm Chôm đi học ở Waseda, mỗi lần đến trường phải đổi ba chuyến tàu. Em muốn chuyển đi hoàn toàn chính đáng. Mà cho dù không chính đáng, chúng tôi cũng chẳng có quyền ngăn cản em.

Trở về nhà sau một ngày đi học. Trời mưa lớn, vừa tạnh. Cơn mưa rào đến và đi đều thật nhanh. Lần đầu tiên thấy cơn mưa rào Nhật Bản to đến thế, không tính cơn bão vừa mới quét qua mấy ngày trước. Yamanote luôn biết cách dẫn hành khách đi qua những nhà ga đông đúc nhất ở Tokyo, những tòa nhà công sở cao ngất, những con phố mua sắm sầm uất, sáng choang, nơi ngã tư Shibuya nổi tiếng, hai bờ lấp lánh đèn màu nhòe nhoẹt trong nước mưa đọng, vô số những mảnh cửa kính sáng quắc dọc Osaki u sầm. Tôi không biết tại sao mình lại thích Osaki. Yên tĩnh và hào nhoáng. Chỉ cần lướt qua cũng nhìn thấy những bóng đèn tuýp trắng xếp dọc ngay ngắn như cách người Nhật xếp hàng trước một tiệm trà sữa để mua một ly trân châu đường đen. Bên trong, vô số nhân viên công sở mặc áo cổ cồn vẫn cặm cụi bên màn hình máy tính. Người Nhật luôn bận rộn, tôi cũng muốn mình được bận rộn.

“An ơi, chị nấu cơm xong rồi. Ra ăn đi.”

Ít có khi Mie chăm chỉ nấu được một bữa cơm, tuy rằng bữa cơm cũng chỉ có hai món là cơm trắng và thịt gà kho cà ri. May thay không phải thịt bò.

“Chị không mua rau à?” – Tôi cúi đầu nhìn bát cơm hỗn độn. Màu thịt gà có vẻ hơi đậm.

“Ờ, chị quên. Mà đằng nào chị cũng không ăn rau đâu? Lần sau em ăn thì em mua.”

“…”

Dù sao tôi cũng đã rất cố gắng để nói chuyện với Mie.

“Chôm Chôm không ăn à?”

“Ừ. Nó tự ăn rồi.”

Mặc dù từ trước đến nay Chôm Chôm chẳng mấy khi ăn cùng chúng tôi, nhưng lần này tôi cứ có cảm giác con bé chỉ là không muốn nhìn thấy tôi. Mie chẳng mảy may quan tâm đến không khí trong nhà, vừa bấm điện thoại vừa nói:

“À em. Tiền điện tháng này chị vừa chuyển khoản rồi. Mỗi người 3450 yên.”

Tôi nuốt miếng cơm hơi to, thức ăn nghẹn trong cổ họng.

“Em chưa được nhận lương.”

“Ừ, bao giờ có thì trả cho chị.”

“Mặn.”

“Chị ăn thì vừa.”

Điện thoại “ding ding” hiển thị một tin nhắn mới. Là mẹ tôi. Bà gửi cho tôi một bức ảnh, món thịt kho tàu.

“Mie ơi, ngày mai chị có bận gì không?”

“Ngày mai chị đi làm thêm rồi.”

“Vậy còn buổi tối?”

“Chị hẹn đi ăn với Zhang rồi.”

Zhang là bạn trai Mie, một người Mỹ gốc Trung Quốc. Anh ta đang theo học tiến sỹ ngành công nghệ cùng trường với chúng tôi, con người khá hòa đồng, còn đặc biệt thích tới nhà chúng tôi ăn chùa món Việt Nam nữa. Nếu đã là Zhang…

“Vậy thôi. Em đang định nếu mai chị rảnh, mình đi onsen.”

Đi onsen, xả stress.

“Ừ nhưng mai chị bận rồi, để cuối tuần nhé.”

Tôi chỉ đặc biệt muốn đi vào ngày mai.

“Mà chị tưởng em hết tiền rồi? Vẫn muốn đi chơi à?”

Không biết nhà nào mới đổ rác, mấy âm thanh phịch phịch vang lên dưới tầng. Hôm nay là ngày đổ rác thải cháy được, tôi thuận tay đóng lại cửa sổ.

Tám giờ sáng là khoảng cao điểm của Việt Nam, chín giờ là thời gian cao điểm của Nhật Bản. Tàu tám rưỡi sáng là địa ngục, nhưng chuyến tám giờ dễ thở hơn nhiều. Nếu may mắn, tôi còn có thể tìm được một chỗ ngồi đâu đó trong những toa đầu tàu. Trên tuyến Yamanote, trải suốt từ Yurakuchou, Shimbashi, Hamamatsucho, Tamachi, đi qua Shinagawa tới Osaki, Gotanda hay bờ sông Meguro, đều là khu công sở bận rộn. Mỗi ga tàu tôi từng qua đều không giống nhau. Ga tàu của mỗi thành phố không giống nhau, ga tàu của mỗi tuyến tàu cũng không giống nhau. Chikatetsu có một cảm giác bận rộn hiện đại và u ám một cách quái gở hết sức Nhật Bản. Trong khi những tuyến mặt đất thì luôn xô bồ, hỗn loạn và bon chen. Không phải chỉ một lần tôi trông thấy những tay nhậu cuối tuần nằm la liệt ngủ trên cầu thang của ga Yamanote trước quảng trường Hachiko, càng không chỉ một lần trông thấy những bãi nôn mửa bốc mùi rải rác cạnh ghế chờ của Shinagawa. Ở đâu cũng vậy, có người này sẽ có người khác. Một đất nước phát triển không phải lúc nào cũng sạch sẽ, họ chỉ là rất biết cách giấu đi.

Ai chẳng vậy.

Con người luôn có một phần xấu xí thiên bẩm, như một con quỷ nhỏ ẩn sẵn trong tiềm thức, chỉ chờ ngày phá vỏ bộc lộ ra. Người ta sinh ra, lớn lên, không ngừng đấu tranh, dày vò để trở nên hoàn thiện. Trưởng thành có lẽ là cuộc chiến trường kỳ nhất, mệt mỏi nhất, cũng dễ làm người suy sụp nhất.

Tôi xuống tàu ở Ikebukuro theo một thói quen có sẵn. Trường tôi đang theo học cách cửa Tây nhà ga chừng 15 phút đi bộ, nhưng tôi không có ý định sẽ đến trường. Điện thoại báo hai cái tin nhắn.

“An – san, hôm nay em không đi học sao?”

“Giáo sư, hôm nay em ốm, xin phép giáo sư cho em nghỉ một ngày.”

Tin nhắn thứ hai, thế mà đến từ Mie.

“Ơ hôm nay sinh nhật em à? Chúc mừng sinh nhật em nhé.”

Lần này thì tôi không trả lời nữa.

Tôi chọn đại một tuyến tàu, xình xịch theo nó ra khỏi Tokyo. Tôi không biết mình muốn đi đâu, chỉ cần đi là được rồi. Có một vài khoảnh khắc đặc biệt trong đời, bản thân mình nhất định muốn làm một điều gì đó thật đặc biệt, cũng thật là điên rồ – tôi gọi nó là thời điểm. Sinh nhật chính là một thời điểm như thế.

Những năm còn ở Hà Nội, tôi thường thích nhảy lên xe máy, đổ đầy xăng, chạy vào phố cổ, lang thang như một con ruồi không đầu. Khi nào mệt rồi, có thể ngẫu nhiên dừng lại ở con phố nào đó, vào một quán café vô danh nào đó, gọi một món đồ uống nào đó.

Nhà cửa, phố xá, đô thị và những tòa cao ốc chọc trời bị bỏ lại đằng sau. Trước mắt tôi bắt đầu hiện ra màu xanh dịu dàng của cây cối, cánh đồng, núi và sông. Xa xa nhấp nhô mái gỗ cong cong của một khu thị trấn cổ, tôi không biết mình đang ở nơi nào. Tàu địa phương thường rất vắng. Đối diện băng ghế của tôi chỉ có một bà lão đang ngồi.

Một giờ trưa, tôi ngẫu nhiên xuống tàu ở một nhà ga trên núi hẻo lánh. Quên mất rằng nhà ga ở địa phương không tiện lợi như ở Tokyo, tôi phải ra khỏi cửa, đi bộ mất khoảng hai mươi phút mới tìm được một tiệm ramen ven đường. Bên trong tiệm chỉ có sáu cái ghế, lúc tôi tới nơi, phục vụ quán mời tôi ra hàng ghế đá ngoài tiệm ngồi xếp hàng.

Lại chờ thêm chừng hai mươi phút, lứa khách trước đó lục tục rời đi, phục vụ lau dọn bàn ghế xong xuôi mới mời chúng tôi vào quán.

Tôi gọi một tô ramen vị muối, topping thịt hầm và măng khô. Vốn chẳng trông đợi gì, nên việc tô ramen ở đây ngon bất ngờ làm tôi khá kinh ngạc. Tôi chụp một tấm ảnh, quẳng lên story, xong xuôi mới tiếp tục bữa “tiệc” tự chiêu đãi.

Chúc mừng sinh nhật!

Lúc tôi cuốc bộ về ga tàu, bấy giờ đã là hơn ba giờ chiều. Nắng gây gây, có người gọi đến.

“Chúc mừng sinh nhật con gái! Hôm nay có đi đâu không?”

Là mẹ gọi.

Tôi bật camera, cố gắng làm ra vẻ hớn hở nhất vẫy tay loạn xạ:

“Có, con đang đi chơi mẹ ạ.”

“Đi với bạn à?”

“Vâng.”

“Mấy đứa đã ăn chưa? Để mẹ nhìn xem nào, dạo này gầy rồi kìa.”

“Hôm trước ba nói con béo ra.”

“Béo cái gì mà béo. Ông ấy thì biết cái gì, có bao giờ xót con đâu. Đang ở đâu đây? Hôm nay sinh nhật, rủ bạn bè đi ăn cái gì ngon nhé. Tiền còn không?”

Tôi lại nhe răng cười:

“Còn ạ.”

“Ở bên đó đừng có tiết kiệm, thiếu thì bảo, ba mẹ chuyển cho con.”

“Mẹ yên tâm. Không thiếu.”

“Thế thì tốt. Đi chơi đi nhé. Bây giờ mẹ phải vào làm rồi.”

“Vâng, mẹ đi làm đi. Con cũng đi đây.”

Nói thế, nhưng tôi vẫn cho đến khi mẹ ở bên kia dập máy, mới chậm chạp tắt cuộc gọi. Tàu lại đến rồi. Năm sáu ông bà lão xếp hàng bước lên. Tôi ngồi ngẩn người một mình trên ga tàu, chẳng hiểu sao không muốn động đậy.

[800 ngày] Chương 3

Vâng. Xin lỗi. Râu quai nón và đôi mắt màu xanh nhạt

Không có mô tả.

Tôi xuống tàu ở Gotanda, bắt đầu đi bộ. Dọc sông Meguro là hàng anh đào đã qua mùa hoa nở. Vào dịp tháng Tư hàng năm, đây là một trong mười điểm ngắm hoa nổi tiếng nhất ở Tokyo. Người Nhật thích trồng hoa anh đào thành từng lũy dọc những bờ sông, đơn giản vì khung cảnh này thực sự rất đẹp.

Tôi sẽ tốt nghiệp vào mùa anh đào năm sau, nếu trong 9 tháng tới tôi có thể kịp viết lại từ đầu bài luận văn mới.

Gió ven sông thổi tới, lại là mùi thịt bò. Tiệm cơm Meguro khiêm tốn nép mình đứng cạnh cửa hiệu Don Qixote mega cực lớn. Tôi bước vào, nhận được một cái cúi đầu đồng loạt và câu chào cực kỳ niềm nở:

Irasshaimase.”

Tôi mỉm cười:

“Xin chào. Tôi là An đến từ cửa tiệm Shinagawa.”

Anh ấy rất cao, đeo khẩu trang, đội một chiếc mũ nồi màu đen đồng phục của tiệm cơm. Lúc anh ấy nhìn thấy tôi, dáng mắt anh ấy cong lên nhẹ nhàng, là một đôi mắt màu xanh nhạt.

Ồ, một anh chàng ngoại quốc.

Ba ngày rồi, Chôm Chôm vẫn không nói chuyện với tôi. Con bé thật sự tức giận.

“Bạn đến đưa Tamagoyaki ư?”

“Đúng vậy. Tôi được cử tới thay Rua – san và sẽ làm việc vào ca tối.”

Anh ấy chỉ lên tấm biển gài ở tạp dề, nói với tôi:

“An – san phải không? Rất mong được giúp đỡ.”

“Không có gì. Rất mong được bạn giúp đỡ thêm.”

“Đồng phục ở bên kia, bạn thay đi nhé.”

Khách buổi tối thường không đông, đó cũng là lý do tôi luôn được sắp xếp làm việc vào ca này. Nhân viên mới chậm chạp như tôi chưa đủ thạo việc để bán cơm vào giờ ăn trưa. Từ khoảng 6 giờ chiều cho đến 9 giờ tối khi tiệm đóng cửa, công việc chủ yếu của chúng tôi là bán nốt số cơm hộp đã làm trong ngày và chuẩn bị nguyên liệu sẵn sàng cho hôm sau. Tôi bơi trong bộ đồng phục size M, thản nhiên khiêng bao gạo 10 kg đổ vào máy vo. Cửa hàng trưởng và anh bạn ngoại quốc trao đổi gì đó liên quan đến công thức món ăn mới. Máy vo gạo vẫn chưa đầy nên tôi đổ thêm một bao gạo nữa.

“An – san, có khách đặt hàng qua website. Bạn có biết cách sử dụng hệ thống chưa?”

Có, tôi đã từng được hướng dẫn một lần.

“Vâng, tôi chuẩn bị ngay.”

Chẳng biết từ bao giờ tôi lại thích công việc làm bếp. Khách hàng gọi một phần cơm thịt bò truyền thống, một phần cơm lươn và sò điệp tempura. Mọi thứ đều có công thức sẵn có, chẳng phải suy nghĩ gì cho cam. Việc cần làm duy nhất chỉ là chú ý căn thời gian và đừng để phần thịt của bạn quá lửa.

Cuộc sống nếu cũng đơn giản như vậy thì tốt quá.

Nhưng mà, chẳng lẽ chúng tôi lặn lội tới tận đây, vật lộn nơi đất khách quê người, chỉ để cả ngày cắm mặt trong một tiệm cơm thịt bò?

“Xin chào, tôi chính là người đặt cơm lúc 8 giờ tối.”

“Tất cả đã sẵn sàng, của ông đây.”

Người khách nhận đồ, đứng lại trước cẩn thận kiểm tra hồi lâu. Xong xuôi, ông ấy ngẩng đầu nhìn tôi như muốn chờ đợi điều gì đó. Tôi hơi kinh ngạc:

“Thưa ông, tôi đã chuẩn bị sốt, giấy ăn và đũa đầy đủ rồi. Của ông xong rồi ạ.”

Ông khách cười cười với tôi, hỏi:

“Hóa đơn thì sao?”

“Cũng ở trong túi, thưa ông.”

Vị khách xem chừng kinh ngạc hơn cả tôi, nhưng bởi vì tôi đã nói như vậy, ông ấy đành ra về. Mãi cho đến tận lúc chúng tôi tan ca, khi cửa hàng trưởng kiểm tra lại doanh số bán hàng trong ngày, tôi mới phát hiện ra vị khách ấy rốt cuộc là muốn chờ cái gì.

Tôi đã không tính tiền cho ông. Không phải quên tính, mà là không tính.

“Sao có thể nhầm lẫn tai hại như thế An – san? Nếu như em không biết dùng thì phải hỏi chứ?”

“Em cứ nghĩ là đặt hàng qua website cũng giống như đặt hàng qua ứng dụng, là trả tiền trước. Em thực sự, thực sự xin lỗi.”

“Không phải một hóa đơn, mà tận ba cái. Bây giờ cửa hàng thiếu hơn năm ngàn yên. Em tính làm thế nào đây?”

Tenchou – sama, em thực sự xin lỗi.”

“Tôi hỏi em định làm thế nào? Lúc nào cũng xin lỗi. Chỉ biết vâng với xin lỗi thôi.”

Tôi không phản ứng lại, đơn giản vì những chuyện này đều nghe đã quen. Đưa nhầm hóa đơn, nhầm món ăn, thiếu nước sốt hoặc salad, chuyện gì cũng từng có, đây không phải lần đầu tiên tôi mắc lỗi. Chỉ là chưa có lỗi nào trị giá tận năm ngàn… Con người ấy mà, chưa biết đau thì còn chưa biết rút kinh nghiệm.

Mà chị ấy nói chẳng có gì sai, tôi chỉ biết vâng và xin lỗi.

“Để em bù lại hóa đơn này, có được không ạ?”

Chín giờ tối, anh bạn ngoại quốc lau dọn bàn ghế xong xuôi, cất máy hút bụi, bước vào phòng thay đồ. Cả tôi và anh ta đều tan ca, cửa hàng trưởng ở lại sau cùng để chỉnh sửa lại báo cáo bán hàng. Tôi quẳng bộ đồng phục dính đầy mùi thịt bò vào sọt quần áo bẩn, vội vội vàng vàng chào tạm biệt:

“Mọi người đã vất vả rồi. Hẹn gặp lại.”

Cửa hàng trưởng vùi đầu vào giấy tờ, không cả ngẩng đầu lên. Tôi không nghĩ chị ấy còn muốn gặp lại tôi, nhưng chị ấy vẫn nói:

“Hẹn gặp lại.”

Tôi sải bước, dài, nhanh, đi gần như chạy về phía nhà ga. Đừng nhìn ngang nhìn dọc, cũng đừng ngoái đầu, mùi thịt bò buồn nôn kia đang ở phía sau.

Thế mà vẫn chẳng đuổi kịp chuyến tàu lúc 9 giờ 12 phút. Tôi tìm một băng ghế trống ngồi đợi tàu, rảnh rỗi ghi con số năm nghìn yên vào sổ chi tiêu. Tiền nhà tháng này còn chưa đóng, chỉ sợ hai tuần tới phải ăn mì gói qua ngày.

“An – san!”

Mùi thịt bò thế mà vẫn đuổi tới.

Là người ngoại quốc làm thêm Meguro. Anh ấy đã thay đồng phục. Lúc này trên người là một bộ quần jeans áo thun gọn gàng khỏe khoắn. Tôi ngước nhìn, trông anh còn cao hơn lúc ở trong tiệm cơm nữa. Tôi bối rối, lúc trước tôi là lờ đi không hỏi tên anh.

“An – san đi nhanh thật đó. Bạn trễ tàu sao?”

“Vâng, tôi tới thì tàu chạy mất rồi.”

Anh ấy nhìn tôi một lát, thành thành thật thật hỏi:

“Vừa nãy thật lấy làm tiếc cho An – san. Nghe nói bạn là nhân viên mới, trước đó quản lý không hướng dẫn bạn à? Có phải bạn không thạo tiếng Nhật lắm không?”

“Đúng là tiếng Nhật của tôi không tốt lắm. Tôi nghe hiểu, nhưng mà…”

Tôi nhún vai thay cho vế sau. Chẳng biết nên giải thích với anh ta như thế nào. Tôi không phải người giao tiếp tốt. Đừng nói là tiếng Nhật, ngay cả tiếng mẹ đẻ tôi cũng chưa chắc nói được mấy câu.

“An – san cũng đi tuyến tàu này à? Nhà em ở đâu?” – Câu hỏi đột ngột chuyển sang tiếng Anh, tôi hơi ngạc nhiên.

“Anh cũng nói tiếng Anh à? Em ở ga Ota – roku, em sẽ đổi tàu ở Shinagawa.”

“Ồ, tuyến Keikyu à? Nhà anh cũng nằm trên tuyến đó. Anh xuống tàu ở Shimbamba.”

Tôi ngập ngừng nói:

“Thật xin lỗi, vừa nãy em chưa kịp hỏi… tên anh là gì?”

“Anh tên Sarl. S – A – R – L. Mọi người gọi anh là Saru.”

Anh ấy nghiêng đầu cười. Ở góc độ này sống mũi của anh ấy cao nhất, râu quai nón gọn gàng bao trọn lấy đường nét khuôn mặt đặc biệt á đông. Tôi hơi khát nước.

“Em từ đâu đến vậy An?”

“Em tới từ Việt Nam. Còn anh thì sao?”

“Middle East, có lẽ em không biết đâu.”

Chẳng trách, đôi mắt anh giống như đêm sa mạc.

Trong sân ga có một máy bán nước tự động, tôi sờ sờ chiếc ví đựng tiền xu trong túi quần, lại nhớ đến khoản năm ngàn yên buổi tối, tự giác ngồi im.

“Em đang đi học, hay là qua đây đi làm? Tới Nhật lâu chưa?”

“Em học Sau đại học, được một năm rồi.”

Sarl tháo ba lô trên vai, lục lọi một hồi moi ra được một chai nước khoáng chìa cho tôi.

“Ồ, giỏi quá.”

Giọng anh hơi thấp, gần như muốn tan vào gió đêm. Tàu đến rồi, chúng tôi chọn ghế gần cuối của một khoang vắng vẻ. Không gian đột nhiên tĩnh lặng, tôi tự nhiên không biết phải tiếp tục câu chuyện này như thế nào, bèn vờ vịt mệt mỏi tựa đầu vào thành cửa sổ nhìn ra ngoài. Sarl cũng không quấy rầy tôi, tự giác đeo tai nghe nhìn sang phía khác.

… Đêm hôm ấy, tôi mơ thấy mình ngồi bên bờ sông Meguro, hai hàng anh đào đúng mùa nở rộ. Trên trời dưới nước bị bao phủ bởi một đám mây hồng bồng bềnh, từ từ cuốn lấy tôi, vuốt ve tôi, bao bọc tôi, nhấn chìm tôi trong một thứ ảo giác mơ hồ vui sướng.

Tôi ước gì mình không bao giờ tỉnh lại.

[800 ngày] Chương 2

Ánh sáng lọt qua khe cửa. Let’s Bungee Jump

Tôi ra khỏi ga tàu lúc 9h25 tối như thường lệ, hối hả hệt như những người Nhật lúc nào cũng hối hả. Sáng vội vã đi, tối vội vã về nhà, tuy rằng tôi cũng không rõ ở nhà có thứ gì hối thúc làm họ phải vội vã như vậy. Còn tôi lúc này, đơn giản chỉ vì muốn kịp tạt qua khu siêu thị ở dưới chân ga, mua một phần bữa tối bỏ bụng. Đồ ăn cuối ngày luôn luôn được giảm giá, tôi nhặt hai xiên thịt nướng, một hộp Karaage và salad bắp cải.

Căn hộ của chúng tôi cách ga tàu cỡ mười phút, băng qua một dãy phố, một cái ngã tư và một mảnh đất bị rào lại mà tôi nghe đồn trước đây là nghĩa trang. Mie có tật sợ ma – mặc dù tôi không rõ ma Nhật thì hiểu tiếng Việt bằng cách nào – chị ấy không bao giờ ở nhà được một mình, bất kể ngày hay đêm.

Tôi mở cửa, bên trong tối om. Chôm Chôm thế mà cũng chưa về. Mùi sàn gỗ lặng lẽ xuyên qua bóng tối, nhẹ nhõm. Không có Mie, cũng không có Chôm Chôm, tôi bật loa ngoài thật to một bài nhạc phim Trung, vừa thay quần áo vừa ê a hát theo. Ở nhà một mình có cái sung sướng của một mình. Tất nhiên Mie và Chôm Chôm đều không rảnh chen vào việc của tôi, đôi khi chỉ là sự hiện diện của một cá thể nào đó ngoài bản thân đã đủ khiến mình gò bó rồi.

Chôm Chôm về nhà sau tôi nửa tiếng. Con bé đang học năm thứ hai, cũng đã giắt lưng một công việc làm thêm khá nhẹ nhàng ở trung tâm sinh viên quốc tế gần đó.

Tôi nghe con bé mở tủ giày, tiếng công tắc điện. Ba tiếng “tách” liên tiếp, đèn hành lang, đèn bếp và đèn phòng khách lần lượt bật sáng. Chôm Chôm có thói quen đi đến đâu bật đèn tới đó. Tôi ngạc nhiên là cả con bé và Mie đều sợ ma, theo những cách chẳng giống nhau, không biết trước khi tôi dọn tới hai người đã sống thế nào.

Chôm Chôm lướt qua tôi rất nhanh, thẳng tay quẳng ba lô vào phòng. Tôi tự giác coi bài nhạc Đen Vâu oang oang phát ra từ loa ngoài điện thoại trong túi quần nó như một lời chào không khách sáo.

“Em ăn gì chưa?”

Con bé gật đầu.

“Hôm nay Mie không về đâu.”

“Ừ, chị biết rồi.”

Chôm Chôm không phải người thích nói chuyện. Về điểm này tôi và con bé giống nhau. Những lúc Mie không ở nhà, tôi thường xuyên không biết phải nói chuyện với Chôm Chôm như thế nào. Nước sông không nên chạm nước giếng.

“Chị tắm chưa?”

“Chưa.”

“Cho em tắm trước. Mai em phải nộp bài tập.”

Nhường em.

Ngày mai là thứ Hai, tôi cũng có một buổi hướng dẫn một đối một với giáo sư chuyên ngành. Luận văn của tôi gặp trục trặc về số liệu, giáo sư nói bà ấy cần kiểm tra tập dữ liệu mà tôi đang sử dụng. Điện thoại bỗng rung. Nửa năm ở đất nước xinh đẹp này đã dạy cho tôi từ bỏ thói quen nghe điện thoại. Tôi không có nhiều bạn bè, chẳng ai sẽ cần gọi cho tôi. Còn những người khác? Chưa chắc tôi đã hiểu họ nói gì.

Có điều người Nhật không dùng Zalo, mà gọi cho tôi lúc này cũng chỉ có một người. Tôi tần ngần nhìn ra cửa sổ.

“Ba gọi con ạ?”

“Ừ, sao hôm qua ba gọi mãi con không nghe thế?”

Tôi mở laptop, mở bảng dữ liệu để trước mặt, giống như thể tôi thực sự đang bận rộn.

“Chắc lúc đó con đi làm ạ. Zalo không hiện thông báo.”

“Ba gọi tận ba lần. Mãi không thấy nghe.” – Giọng ba ở đầu bên kia nghe đầy phật lòng. Đêm oi nồng, trán tôi hơi lạnh.

“Vâng con biết rồi. Dạo này con hơi bận. Ở nhà ăn cơm chưa ba?”

Ba không có ý định buông tha tôi.

“Ăn rồi? Thế là không được đâu. Ba gọi thì phải nghe chứ?”

“Dạ…”

“Đâu bật camera ba xem nào? Dạo này mặt tròn thế? Lại lười tập thể dục à? Ba ngày nào cũng chạy bộ 2 kilomet đấy. Còn trẻ thì phải rèn luyện nhiều vào, thế là không ổn đâu nhé.”

“Vâng.” – Nếu mỗi ngày tôi làm bếp tám tiếng, đi bộ thêm hai tiếng đồng hồ, hiệu quả không biết có bằng chạy bộ không nhỉ?

“Đã sắp thi chưa? Học kỳ này là học kỳ thứ hai rồi nhỉ? Chỉ còn 1 năm nữa thôi đấy. Tiếng Nhật học đến đâu rồi? Hôm trước ba có gặp một chị cũng đi học ở Nhật, về làm cho công ty kia lương được ba mươi triệu một tháng, có bằng N2… Con học tiếng đến đâu rồi?”

“Vâng.”

Màn hình Windows thông báo một email mới. Tôi ấn vào kiểm tra.

Chúng tôi rất tiếc vì bạn đã dừng chân ở vòng phỏng vấn lần trước. Xin nhấn mạnh đây không phải vì bạn không giỏi, chỉ là chúng tôi tìm kiếm những gương mặt thật sự phù hợp cho vị trí này.

Tính từ đầu tháng này, đây đã là cái email từ chối lần thứ năm.

“Để ý tìm xem có công việc nào ở bên đó không. Sắp tốt nghiệp rồi, phải tính đấy, sau này đi làm ở đâu? Thời gian phân bổ cho hợp lý, một phần ba cho việc học thôi, còn lại phải trau dồi kỹ năng còn đi làm đấy. Không chơi được nữa đâu. Đầu tư mấy trăm triệu đi học, làm công việc gì tử tế… Này, hôm nọ ba kết nối một cô làm mảng tuyển sinh thực tập sinh, đang cần một người ở Nhật phụ trách ăn ở cho người bên đó, ba giới thiệu con cho chị đấy rồi. Bảo là con gái chú đang ở đó, trước đây nó từng làm đại diện cho một công ty Nhật ở Việt Nam rồi này. Nó cũng năng động xông xáo lắm. Hôm nào nói chuyện với chị ấy xem.”

“Vâng.”

Trong phòng nóng quá, tôi chậm rãi tiến một bước. Cửa sổ kính và tấm chắn côn trùng được kéo ra.

“Thế mấy hôm vừa rồi bà ấy có gọi cho con không?”

Cuối cùng cũng đến rồi. Lại là chuyện đó.

“Mẹ gọi con từ tuần trước.” – Tôi hàm hồ đáp. Nếu bên dưới không phải bãi rác, và nếu tôi có một sợi dây chun cực to buộc vào người, có lẽ nhảy xuống cũng không tệ.

“Ba rất bực mình, ra không chịu nổi. Sao lại có thể cư xử như thế? Không phân biệt được đúng sai, nói mãi không hiểu. Làm tổn hại đến tất cả mọi người.”

“Con bây giờ lớn rồi, có những việc bắt buộc phải thể hiện quan điểm. Chỉ có con mới tác động được đến cái người ấy thôi. Buộc phải đương đầu con ạ, phải có bản lĩnh.”

Chữ trên màn hình máy tính nhòe nhoẹt, nhảy múa trước mắt. Tôi nghĩ mình nên đi ngủ thôi.

Chôm Chôm hẳn vẫn đang học. Tôi nhắm mắt vùi đầu vào gối, cố gắng lờ đi tiếng gõ phím lách cách và ánh sáng lọt qua khe cửa phòng Chôm Chôm. Trong nhà này, chỉ có tôi là đứa ghét ánh đèn buổi đêm.

Giấc ngủ này không sâu, thế mà tôi lại nằm mơ một giấc kỳ lạ.

Lúc tôi mở mắt, đồng hồ chỉ một giờ đêm. Đèn bên kia vẫn sáng, không nghe tiếng động ở phòng bên, tôi cho là con bé ngủ quên rồi. Xuất phát từ ý thức tiết kiệm điện được dạy từ bé, tôi bèn rón rén qua tắt đèn.

Thế nhưng lúc ba giờ sáng, mơ màng tỉnh dậy, ánh sáng ở phòng bên vẫn tràn qua khe cửa phòng đâm vào mắt tôi, hẳn là ban nãy là tôi đã nằm mơ thật. Cho nên tôi quyết trở dậy đi tắt đèn.

“Aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa!”

Tôi còn chưa kịp nằm xuống, lần này thì chắc chắn không phải nằm mơ.

Là Chôm Chôm vừa hét, hét rất to.

Có tiếng bước chân cục súc của con bé, tiếng xả nước nặng nề, và một tiếng đóng cửa đầy giận dữ.

Tôi im lặng nằm thẳng đuỗn trên futon, kéo lại chiếc chăn mùa hè trên ngực, ngửa đầu nhìn trần nhà. Ánh sáng cuối cùng cũng tắt rồi, nhưng tôi không ngủ được nữa.

Giáo sư Nakamura đẩy chiếc kính cận gọng vuông, cười hỏi tôi:

“An – san hôm qua mất ngủ à? Đừng lo lắng như vậy. Chúng ta vẫn còn gần một năm nữa để sửa lại đề tài luận văn của em mà.”

Tôi chẳng có cách nào ngoài nhún vai cười khổ:

“Xin lỗi cô, em không thể tìm được số liệu từ năm 2015 trở về trước. Em cũng thử tăng phạm vi các nước trong danh sách nghiên cứu, nhưng những nước kia lại khuyết thông tin, không thể đưa vào làm mẫu được.”

“Nhưng số lượng mẫu của em không đủ. Không đủ mẫu thì kết quả chạy ra cũng sẽ không chuẩn, một nghiên cứu như vậy thì không đảm bảo tính chính xác. Hôm nọ cô gợi ý cho em tìm thêm data về chỉ số công nghệ hóa ở các nước đưa vào mô hình, em đã tìm được chưa?”

“Em đã tìm được rồi, nhưng số liệu này lại chỉ có từ năm 2012 đến 2016. Em sợ nếu dùng nó thì khá lỗi thời, nhất là đối với ngành công nghệ.”

Nếu đã như vậy, An – san, cô nghĩ em phải đổi đề tài.

Em còn 9 tháng nữa, đừng lo.

[800 ngày] Chương 1

Thịt bò thối. Cô ấy muốn nhảy khỏi cửa sổ tầng ba

…Trời nắng đẹp. Tôi nhìn ra cửa sổ, cố gắng kìm nén ham muốn nhảy xuống. Những người xung quanh chỉ cho rằng tôi đang chăm chú ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài kia mà thôi.

Gần đây Mie tình cờ đọc được trên facebook – một bài viết nói về những người bị trầm cảm, thế là chị ấy bắt đầu để mắt đến tôi mỗi khi tôi đứng bên cửa sổ, thẫn thờ.

Từ khung cửa sổ này của chúng tôi nhìn ra, có thể thấy được ban công sắt tây gỉ của nhà bên cạnh, tối ngày che rèm kín mít. Một cục nóng máy điều hòa treo trên tường nhà, sát với ống thông gió, trên bao lan là cái chăn vắt ngang in hình hoa anh đào trông cũng thơ mộng. Con ngõ nhỏ rải nhựa ngăn cách ở giữa, vừa đủ cho một chiếc ô tô bảy chỗ đi qua. Phòng trọ chúng tôi thuê nằm trên tầng ba của một căn chung cư cỡ nhỏ ở quận Ota, tường ngoài ốp bằng gạch nâu xám. Dưới cửa sổ phòng lần lượt có hai ô cửa sổ khác cũng kéo rèm trắng, và một cái thùng rác hai ngăn cực to – sức chứa có lẽ phải lên tới mấy ngàn lít, đảm nhiệm rác thải của mười lăm hộ dân cư trong tòa nhà.

Phong cảnh đúng là đẹp đến nỗi khiến người ta muốn nhảy khỏi cửa sổ.

“Không đời nào. Em đâu có dở hơi.” – Tôi cười, đơn giản bởi vì ngoài cười ra tôi không biết nên dùng thái độ nào để không đả kích tâm hồn luôn nhạy cảm không đúng chỗ của Mie. Chị ấy thường có lối suy nghĩ hết sức điên rồ, một sự điên rồ vừa logic vừa khó hiểu.

Nhảy xuống bãi rác thì làm sao mà chết được?

“Nhưng gần đây em chẳng bị làm sao ấy à?”

Tôi thoát y. Mùa hè Nhật Bản có cái thứ nắng oi bức giết người hệt như không khí Hà Nội trước mỗi trận bão lớn. Toàn thân tôi đã nổi mẩn do dị ứng thời tiết. Tôi vòng tay tháo móc áo lót, lưu loát ném vào chiếc giỏ đựng quần áo bẩn trong góc phòng. Hai vết đỏ lom lom hằn trên vai, dây áo lót mắc vào quai giỏ bằng nhựa, lủng lẳng thòi hẳn một đoạn ra bên ngoài trông đến là bực mình. Tôi lập tức khều chân nhét nó trở lại.

“Hôm nay chị lau đồ đạc trong phòng chưa?”

Mie ngồi trên chiếc ghế lười ngậm kẹo mút. Tôi không hiểu đi ở trọ thì cần quái gì ghế lười? Nhưng mà Mie lại muốn, sau đó còn “lỡ tay” đặt nhầm màu, vừa vặn, đặt nhầm cái màu hồng neon đâm vào mắt mà chị ấy phát cuồng.

Tôi đành lờ đi và coi như đây là một sự trùng hợp không hề nhẹ.

“Chưa. Mới lau hôm kia, đã bẩn đâu?”

“Vậy sao sách của em lại lộn xộn vậy?” – Tôi lấy tay khều quyển sách ra khỏi giá. Cuốn Đắc nhân tâm này hôm trước tôi đã để ở ngăn ngoài cùng, bên cạnh “Chuyện con mèo dạy hải âu bay”. Không có lý do nào để nó tự mọc chân chạy đến bên cạnh cuốn “Biên niên ký chim vặn dây cót” hết cả.

“Chị mới đọc lúc nãy.”

“Hả?”

“Chị bảo chị vừa mới đọc lúc nãy.”

Tôi há miệng. Mie vừa nói chị ấy đọc sách à?

“Sách mà, để chỗ nào chẳng được.”

“Lần sau chị để đúng chỗ đi nhé. Dày một bên mỏng một bên. Để lẫn vào nhau không nhìn thấy đầu sách.”

Nói chung tất cả đều chỉ là cái cớ. Tôi muốn tất cả mọi thứ trong nhà, đặc biệt là sách – phải được để đúng như thứ tự mà tôi sắp xếp. Quy tắc và trật tự luôn làm tôi có cảm giác yên tâm, giống như việc xáo tung mọi thứ trong nhà luôn đem đến cho Mie một cảm giác lười biếng đặc biệt vui vẻ. Thế nên chị ấy gật đầu, thản nhiên ngậm lại cây kẹo mút như một cách ngấm ngầm chống đối. Tôi chán chẳng muốn nói, và đói đến chẳng muốn nói.

“Hôm nay chị cọ toilet và dọn nhà tắm rồi. Em nhớ dọn bếp. Ngoài phòng bếp bẩn lắm, toàn tóc thôi, em nhớ nhặt hết tóc rồi hẵng lau nhà.”

“Em biết rồi.”

“Buổi sáng chị quên bỏ thịt khỏi tủ đá để rã đông, nên chắc trưa nay em tự ăn đi. Chị không nấu cơm đâu.”

“Thế chị không ăn à?”

“Lúc nãy chị tới cửa hàng tiện lợi ăn rồi.”

Tôi nhìn đồng hồ, hai giờ rưỡi. Buổi sáng có ca làm thêm lúc sáu giờ ở quán cơm, tôi chưa kịp cho gì vào bụng cả. Tôi nói, với một cánh tay cầm quyển sách đang run lên.

“Vậy bây giờ em ăn gì?”

“Chị tưởng em ăn ở quán cơm.” – Mie đáp, tôi không hiểu tại sao chị ấy có thể tỉnh bơ trả lời một chữ “tưởng” tự nhiên như vậy.

“Nhưng hôm qua chị nói buổi trưa nay sẽ nấu cơm. Mà em nói em ăn ở ngoài khi nào?”

“Bình thường em cũng hay ăn ở chỗ làm còn gì?”

“Chị thấy em ăn khi nào?”

Mie không trả lời được nữa.

“Nhưng mà dù sao buổi sáng chị cũng bận nên không nấu cơm nữa rồi. Giờ xem ở nhà có gì em tự ăn đi.”

“Chị bận cái gì? Bận ngồi chết dí ở cái ghế lười đó của chị và đăng story à?”

“Em ăn nói kiểu gì đấy hả?”

“Chẳng lẽ không đúng à?”

Cánh cửa sau lưng đóng sầm lại, tôi lao vào bếp. Tủ lạnh chất đầy những món đồ ăn dở của Mie, nào là bánh gạo, snack khoai tây. Hai thỏi chocolate vứt lăn lóc, ba hộp caramel trông cũ kỹ không biết đã hết hạn hay chưa. Mie rất thích tích trữ đồ ăn vặt, và luôn luôn chỉ ăn một miếng rồi bỏ xó. Không có mì gói, cháo ăn liền mang từ Việt Nam sang cũng đã dùng hết. Trong ngăn đựng thịt ở tầng dưới cùng của tủ lạnh, có một chai nước cốt chanh, một cây củ cải chảy nước và một khay thịt bò thâm sì.

Thối rồi. Không nhớ đã mua từ bao giờ.

“Thịt bò thối đen rồi, sao không vứt đi?”

“Chị không biết của ai nên chị để đó.”

Nói toẹt ra ba chữ “vô trách nhiệm” thì hơi quá đáng, nhưng Mie cũng không phải người sẵn sàng nhận trách nhiệm về mình. Cái nhà này chỉ có tôi và Mie ở, ai có thể mua thịt bò và ném vào tủ lạnh? À, đương nhiên, câu trả lời rất rõ ràng. Tôi chỉ không hiểu việc vứt khay thịt bò vào thùng rác cháy được thì có gì khó khăn đến thế? Hay đơn giản là chị ấy vẫn nghĩ có người nào đó trong nhà nhai nổi cái thứ thịt bò này chăng?

Tôi bắt đầu ở chung với Mie một tháng sau khi tới đất nước không quen thuộc này. Tính đến nay đã ghi tên vào hợp đồng nhà của chị ấy hơn nửa năm, nhưng hình như Mie hiểu lầm tôi rất lớn. Mà thật ra Mie hiểu lầm tất cả mọi người.

Tôi thích cách người Nhật phân loại rác, cũng ghét chúng. Ví dụ như đối với khay thịt bò này, muốn vứt đi, bạn phải xé bỏ lớp màng bọc ni lông bên ngoài, trút hết đống thịt vào thùng rác “cháy được. Phần còn lại bao gồm khay xốp và màng bọc sẽ vứt sang bên rác “không cháy”. Ở các thành phố khác nhau họ có những cách phân loại rác khác nhau, cho những mục đích tôi không hiểu lắm. Nhưng hiện tại, chỉ cần nhìn đến cái thứ nhầy nhụa nhung nhúc y hệt một bày dòi đen sắp sửa hóa ruồi chen chúc nhau bò lổm ngổm trong khay thịt, tôi có thể cảm thấy vị chua từ dạ dày ợ lên cổ họng.

Thịt nội địa của Nhật bao giờ cũng đắt hơn thịt nhập khẩu, có lẽ do chất lượng tốt hơn. Các bạn cũng biết cách mà người Nhật nuôi bò thịt rồi đó. Chỉ những con bò giống tốt nhất, khỏe mạnh nhất, được chăm sóc một cách tốt nhất mới có thể xứng đáng thi đỗ vào vòng mổ thịt, sau đó khẳng định tiếng thơm cũng như thành tựu cả đời của chúng trên những đĩa bít tết ba sao Michelin. Thật không biết trước khi bước vào lò mổ, tâm trạng của chú bò vượt trội nào đó là ra sao? Chắc nó cũng sẽ không nghĩ đến có ngày miếng đùi ngon nghẻ chắc nịch của mình lại bị bỏ quên đến thối rữa trong tủ lạnh của mấy kẻ ngoại lai không có khiếu thưởng thức ẩm thực, rồi, còn bị người ta chán ghét vứt bỏ.

Thời gian, ôi, thời gian.

Khay thịt bò bỏ đi rồi, nhưng đến tận tối hôm sau, tôi vẫn cảm giác cái mùi thiu thối đó vương vẩn quanh nhà, lén lút trốn trong mùi nước hoa trộn nước xịt phòng nồng nặc của Mie, thỉnh thoảng thò tay vào khứu giác của tôi, chọc ngoáy. Mie không ngửi thấy gì cả. Tôi bật máy hút mùi ba mươi phút đồng hồ, thứ chướng khí mù mịt kia vẫn không tan, hệt như một loại ảo giác.

Bằng một lý do nào đó, không rõ từ bên ngoài hay bên trong, tình cờ hay nhân quả, tôi luôn vô thức nhìn ra cái cửa sổ ấy. Nếu như nhảy xuống rồi, thứ mùi đó có còn bám theo tôi nữa không nhỉ? Có lẽ là không, dưới kia có hàng đống rác thải đang chờ thối rữa, mỗi ngày. Tôi không tin phong thủy lắm, nhưng Mie từng nói với tôi nhà chị ấy chọn phong thủy rất đẹp, đẹp y hệt cái bãi rác sau nhà.

Tiệm cơm hôm nay không đông. Tôi tần ngần đứng nhìn khay thịt bò sống tẩm gừng, đột nhiên lợm giọng. Ai đó đứng trong bếp kêu toáng lên:

“Đứng đấy làm gì? Nhanh lên. Sáu giờ chiều phải mang tới Meguro rồi.”

Thế là tôi bắt đầu xào thịt. Mùi gừng cay thơm phức bị quạt gió thổi bay ra ngoài, người qua đường thỉnh thoảng thấy mùi thơm liền dừng lại hỏi món cơm thịt bò xào gừng. Mười hộp cơm nhanh chóng bán hết, bọn họ không ngửi thấy thứ mùi vị buồn nôn kia sao?

Tôi hỏi Rùa đứng bên cạnh, cậu bạn đang chăm chú chiên một mẻ tamagoyaki.

“Thịt bò này để từ khi nào đây?”

“Mới mang đến buổi sáng nay, thịt mới.”

Tôi đeo khẩu trang, lờ đi.

“Sao à?”

“Có mùi.”

Thằng nhóc Rùa chế giễu:

“Có mà mũi chị bốc mùi thì có.”

Tôi không thèm trả lời nó, nhưng cái ý nghĩ mũi của mình bốc mùi bắt đầu ám lấy tôi.

Những ngày anh không đến

(2016/09)

Rồi có một ngày anh cũng đến.

Chuyện này hơi lạ nhỉ, vì trước nay ngày nào anh cũng không đến, thậm chí trong những giấc mơ. Người ta nói mức độ độc thân cao nhất là ngay cả trong mơ cũng chỉ thấy mình một mình. Em không độc thân, nhưng chưa bao giờ mơ thấy anh.

Thế nhưng có một ngày anh đã đến. Lặng lẽ trên phố Quốc Tử Giám, giữa dòng người đông, ấm áp đến mức chói chang như cái nắng mùa hạ. Anh không biết bấy giờ em đã có bao nhiêu bỡ ngỡ. Bỡ ngỡ nhìn anh đến, lại bỡ ngỡ nhìn anh đi. Đến rồi đi như một lẽ tất yếu, nhưng em vẫn là không có cách nào quen được.

***​

Những ngày anh không đến, em hay lang thang trong công viên.

Chiều 22 Tết, công viên vắng vẻ.

Bên này một cây cầu kiều, ghép bằng những tấm ván gỗ thật trơn, bắc ngang qua một khe nước nhỏ của hồ ba nhánh. Gió hiu hiu lạnh. Cha con nhà nào dắt nhau lướt qua phía sau em. Xung quanh hoàn toàn yên tĩnh. Em thích những nơi yên tĩnh thế này. Nó cho em một cảm giác yên bình mà lâu rồi em không tìm thấy, trên những con phố nườm nượp người qua những giờ tan tầm, hay trong chính mái nhà không tìm được sự ấm cúng.

Trời hôm nay nhiều sương. Trên mặt hồ mơ màng màu khói. Không đẹp bằng sương khói hồ Tây mà một chiều đông nào chúng ta đã từng ngang qua ấy, nhưng đối với khu dân cư chen chúc xung quanh đây thì là một phong cảnh khá hữu tình. Có tiếng cười đùa của một tốp thanh niên. Một chút ghen tỵ nho nhỏ lướt qua chóng vánh, nhưng không đọng lại.

Thư thả và buồn ngủ, em đoán buổi tối về em sẽ ngủ ngon.

Lững thững ven hồ, có rất nhiều ghế đá còn trống, em chọn một chỗ cho mình thong thả ngồi. Vị trí đó em thích, càng gần mặt nước gió càng thổi lạnh. Em trùm lên đầu chiếc mũ to sụp mà mẹ vẫn ví như một chiếc lồng bàn. Như vậy người ta chỉ thấy một đứa lập dị trùm kín mặt ngồi bên bờ hồ ghi ghi chép chép mà thôi. Yên tâm, không ai gặp mặt cô gái của anh, anh không cần ghen. Mà thực ra anh cũng chẳng ghen. Anh chưa bao giờ ghen. Kể cả khi anh nổi cơn thịnh nộ, đó cũng chỉ là vì anh đang cảm thấy tự trọng của anh bị tổn thương mà thôi.

Khi anh tổn thương, em có thể vì anh mà buông tay từ bỏ. Khi em tổn thương, anh lẳng lặng ngồi yên. Tổn thương anh là bạn bè em, tổn thương em là người dưng nước lã. Em biết đây là quả báo, một thứ gì đấy em xứng đáng nhận được.

***​

Những ngày anh không đến, em cùng bạn gái ra ngoài ăn vặt và cà phê.

Có ai đó đã từng nói muốn cùng với em trải nghiệm mọi món ăn trên đời, nhưng bây giờ chắc chắn không có cơ hội đó nữa.

Có rất nhiều người bạn hỏi em: tại sao lại là anh – một người từ trên trời rơi xuống? Em không biết phải trả lời thế nào. Chỉ nhớ rằng trong một đêm trực hành lang mắt nhắm mắt mở rúc trong tấm chăn dày, em đã thấy tin nhắn của anh. Một cái tin nhắn rất bình thường: “Xin chào.” – lẫn trong một tá các tin nhắn em chưa kịp check.

Hè đến, tháng Bảy, có những người bạn lâu rồi không gặp, mỗi lần gặp rồi lại không muốn về. Cô ấy hỏi: “Mày có thực sự xác định được cảm xúc của mày không?”

Em không. Lần nào cũng vậy. Không hề. Nhắc đến anh tim đập không nhanh, má không đỏ, mắt cũng không sáng, không có lấy một chút nào biểu hiện của một cô gái đang yêu. Đơn thuần đến mức cô ấy còn phải thốt lên với em không dưới một lần: “Này, tại sao nhắc đến anh ấy mà mày nói như thể không liên quan gì đến mày vậy?”

Có thể thứ em cần là cái gì đó khác, cũng có thể sau những lần đơn phương thất bại thảm hại, không còn nhận ra mình muốn điều gì. Ngày hai mươi bốn, đêm thứ hai cắt đứt liên lạc, trở về sau khi tâm sự với bạn gái thân, và trước cuộc điện thoại quyết định đó, em thật ra đã có lựa chọn rồi. Chỉ là lựa chọn ấy của em hoàn toàn khác với những gì xảy ra sau đó. Nếu như em cứng rắn hơn một chút, kiên quyết hơn một chút, có lẽ bây giờ những dòng này hẳn không có cơ hội viết ra.

Bởi vì ở một khoảng cách xa như thế, trong hai năm nhiều biến cố đến như thế, không thể tránh được xa mặt cách lòng, huống chi chúng ta chưa từng ở gần nhau. Qua hết một năm, lại là một buổi tối mưa gió, và cũng với cô ấy bên cạnh chứ không phải anh: “Mày có thực sự yêu anh ấy không? Nếu không…”

Thực lòng hay không thì em không thể nói rõ. Nhưng một khoảnh khắc ấy em đã bắt đầu có suy nghĩ buông tay. Tất nhiên những điều này thời gian qua em chưa từng nói cho anh biết, cũng giống như anh một năm qua có nhiều điều không hề có ý định muốn cho em biết. Yêu thương là chia sẻ, nhưng rốt cuộc chúng ta không ai tin ai.

***​

Những ngày anh không đến, em nằm dài ở nhà, trong ánh nắng mùa hè yên tĩnh và lười biếng, để cho đầu óc mơ mộng của mình trôi bồng bềnh vào cái thế giới xa lạ mình tưởng tượng ra.

Hình như trong suốt một thời gian, em đã quên mất đó là thú vui duy nhất trong suốt mười chín năm đầu đời, vào mỗi ba tháng xa trường, xa bạn và nhàm chán. Trước khi anh đến em chưa bao giờ thích mùa hè, kể cả việc mùa hè có sinh nhật em. Không tìm được người để chia sẻ, một cái sinh nhật cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Năm ấy sinh nhật của em xuất hiện thêm một người. Lần đầu, và cũng là lần cuối. Khi em trở về từ bờ biển, người ấy đã đi. Trước cửa nhà em chỉ để lại một chiếc túi nhỏ, và hai chiếc vòng tay tết vội.

Em đã đánh mất chiếc vòng tay đó, cả hai chiếc, từ bao giờ em cũng không nhớ được. Nghĩ lại thì chuyện đó giống như thể một điềm báo cho tương lai, chỉ là lúc bấy giờ em không hề nghĩ đến. Cuộc sống cứ luôn mọc ra những ngẫu nhiên không mong muốn như vậy, để rồi đến một buổi chiều đẹp trời đầy nắng, chúng ta ngẫu nhiên bỏ qua nhau.

Nhiều ngày sau đó, em vẫn thường tự hỏi khi đặt chiếc vòng xuống cửa nhà em, người ấy cảm thấy thế nào? Có đau lòng như em đau lòng mỗi lần chứng kiến bóng lưng của người ấy biến mất trên phố Quang Trung hay không?

Anh không nói, em không hỏi. Đến giờ em vẫn không biết câu trả lời, giống như anh cũng chẳng biết những ngày đó em đã khóc bao lâu. Nhưng chuyện đó không quan trọng nữa. Một năm đã qua, trong một năm có bao nhiêu biến động? Em không đếm được, không nhớ được. Vả chăng, nhớ cũng không để làm gì.

***​

Hè năm nay bạn gái về sớm, lại là một buổi họp mặt ăn uống tán gẫu những câu chuyện muôn thuở. Lần này cô ấy chỉ hỏi: “Bao lâu rồi chưa gặp nhau?”

Khi ấy em mới giật mình nhận ra. Đã gần một năm, đến tháng bảy là đúng một năm tròn. Một năm anh không đến, em đã kiếm được công việc hẳn hoi, kiếm được tiền, không ít kinh nghiệm, và thậm chí cả một vài anh chàng tới “thả thính”.

Bao lâu chưa gặp nhau cũng không quan trọng. Nếu như anh ấy không thể đến tìm em, em sẽ đi tìm anh ấy.

Câu nói ấy chắc như đinh đóng cột. Chuyến đi đã định, chỉ là em không còn muốn tìm anh. Vài khi nghĩ gặp anh một lần cuối cùng, để một lần được làm người ra đi, để cho anh hiểu thế nào là cảm giác của một người ở lại. Song đến cuối cùng vẫn không thành. Trong lòng đã không còn coi trọng, đi hay đến đều không có gì khác nhau.

Dù sao những ngày về sau, đã có người thay em chờ anh đến.