Ngân hạnh vàng. Lá sấu rụng
Đích thị là mùa thu. Nhiệt độ chợt giảm đột ngột vào một sớm sương mù.
Tôi ra khỏi nhà với chiếc áo khoác giữ nhiệt sờn mép. Mới sáu giờ sáng, tàu không đông. Tôi chỉ kịp mua vội một miếng bánh bông lan trong cửa hàng tiện lợi dưới ga tàu. Theo quy tắc ứng xử nơi công cộng ở Nhật, ăn uống khi đang đi đường hay là đang đi tàu đều bị coi là bất lịch sự như nhau. Họ chỉ ăn trong phạm vi quán ăn, hoặc lúc dừng lại và tìm được một vị trí thích hợp – quy tắc này áp dụng luôn cả với các loại món ăn đường phố. Tiếc thay tôi không phải người Nhật, chỉ có thể gửi lời xin lỗi chân thành đến mấy ông bà lão sáng sớm nay tình cờ cũng có mặt trên khoang tàu này – vì đã phải nhìn một đứa gaikoku-jin ăn uống nhồm nhoàm suốt mười hai phút.
Tàu đỗ lại ở Shinagawa, khách lữ hành chen nhau ở lối ra. Có mấy bà cụ đảo mắt nhìn về phía tôi, sau đó quay đầu vội vội vàng vàng đi mất. Xem tốc độ bỏ chạy của bọn họ kìa, giống như thời trẻ đã từng là vận động viên chạy tiếp sức. Tôi là người cuối cùng rời tàu. Bước ra khỏi khoang, đập vào mắt chính là một màu vàng ươm tựa nắng. Màu lá ngân hạnh chuyển vàng, cũng là màu của mùa thu. Một con quạ đậu trên hàng rào ngăn cách với đường ray tàu, mở con mắt đen nhìn tôi chăm chú. Một suy nghĩ bỗng nhiên bật ra trong đầu: Không biết quạ ở đây có nhận ra tôi là người nước ngoài không nhỉ?
Như mọi ngày, Rùa luôn là người đến cửa hàng sớm nhất. Lúc tôi thay xong bộ đồng phục làm bếp, cậu ấy đã nấu chín một nồi cơm.
“Hôm nay anh đẹp trai ở bên Meguro cũng tới đó, ổng vào ca 9 giờ.”
“Ừ. Nhìn thấy rồi.”
Tôi thấy tên Sarl trên bảng thời gian biểu hôm nay. Đã ba tuần tôi không gặp anh ấy rồi, không nhắn tin, không nói chuyện. Tôi đã nghĩ đến chuyện có khi nào anh ấy không muốn gặp tôi nữa… Nhưng mặc kệ anh ấy có muốn gặp tôi hay không, chúng tôi vẫn phải gặp nhau, vẫn phải làm việc cùng nhau hơn bốn tiếng đồng hồ. Trùng hợp hôm nay tôi, Sarl và Rùa đều tan làm cùng một lúc, bởi vậy Rùa – đã lâu không được đi ăn – liền đề xuất một bữa pizza cho ba người.
Tôi hơi do dự.
“Chị phải về nhà à?” – Rùa hỏi – “Giờ này còn sớm mà?”
“Cũng không có việc gì, nhưng mà sắp hết tiền rồi.” – Khi bạn muốn từ chối một lời mời đi chơi mà không thể giải thích được lý do cụ thể thì cứ nói bạn hết tiền là được, áp dụng cho mọi tình huống.
“Lâu lâu đi ăn có bữa thôi à, hết tiền thì em bao nè.”
Thấy chưa, dù có thể từ chối hay không, bạn cũng không thiệt.
Chúng tôi tới một tiệm món Ý đơn giản Saizeriya ngay trong trung tâm thương mại đối diện ga tàu. Tôi và Rùa nói tiếng Việt, trong khi cậu ấy chỉ có thể nói chuyện bằng tiếng Nhật với Sarl, còn Sarl và tôi thì sử dụng tiếng Anh để giao tiếp – tạo thành một tổ hợp ba người hết sức kỳ quặc.
“Nghe nói anh vừa về nước một tuần, chuyến đi thế nào?” – Rùa hỏi.
“Mọi thứ đều tốt. Tôi có mang tới Nhật một ít mứt quả chà là làm quà cho mọi người, tiếc là hôm nay không đem theo rồi.”
Rùa rất tò mò về đất nước của Sarl. Cậu ấy sinh ra trong một gia đình nông thôn bình thường ở miền Tây sông nước, từ nhỏ đến giờ chưa có nhiều cơ hội ra ngoài ngắm nhìn thế giới bên ngoài. Thời gian sinh sống tại Nhật của cậu đa số cũng chỉ có đi làm, đi học, rồi lại đi làm. Chẳng có ngày nào cậu ấy không có mặt ở quán cơm.
“Nhưng chẳng phải anh đang đi học sao? Bây giờ đang trong học kỳ, có việc gì mà anh phải về nước thế?”
Sarl nhìn tôi, trả lời bằng một câu tiếng Nhật phức tạp mà tôi nghe không quá hiểu.
“Ồ, thật ư? Vậy thì chúc mừng anh nhé!” – Rùa ở bên cạnh tôi kinh ngạc thốt lên, đoạn, quay sang giải thích cho tôi bằng tiếng Việt – “Anh ấy nói… anh ấy vừa mới đính hôn.”
Tôi ngẩng đầu lên, một cô phục vụ người da màu đem ba đĩa thức ăn tới.
“Xin phép quý khách, bàn số 24 một cánh gà sốt teriyaki, một pizza nấm hành và một mì ý sốt kem thịt xông khói. Chúc quý khách ngon miệng.”
Tôi gật đầu cảm ơn người phục vụ, đẩy khay pizza nấm hành mà Sarl thích nhất tới trước mặt anh ấy.
“Congratulations. Anh đã dự tính khi nào thì sẽ kết hôn chưa?”
“Hiện tại thì tôi chưa biết. Gia đình tôi dự kiến muốn cử hành hôn lễ vào hè năm sau, sau khi tôi tốt nghiệp.”
Rùa hỏi:
“Anh có định trở về không? Hay là sẽ định cư ở bên này?”
“Tôi thực sự muốn ở lại, nên tôi đang đi tìm một công việc toàn thời gian ở Tokyo. Nếu như được nhận, sau khi cưới tôi sẽ đưa cô ấy tới đây.”
Tôi chọc một miếng thịt ba chỉ xông khói màu hồng nhạt đưa lên ngắm nghía:
“Cô ấy cũng là người Muslim ư?”
Sarl nhìn tôi cắn miếng thịt ba chỉ, gật đầu.
“Đương nhiên rồi. Em cũng biết đấy…”
Chúng tôi đều nói tiếng Anh, Rùa không hiểu được. Cậu ấy ở một chỗ chăm chú gặm cánh gà, có lẽ không biết chúng tôi nói gì, cũng có thể cho rằng chuyện chúng tôi nói chẳng có gì quan trọng, chỉ là rất đúng lúc xen ngang:
“Anh có ảnh của chị ấy không? Em nghe nói con gái ở Trung Đông xinh đẹp lắm.”
Sarl cười:
“Không nhiều.” – Vừa nói anh vừa mở khóa điện thoại. – “Hôm đó tôi có một bức ảnh chụp chung với cô ấy.”
Rùa đón lấy điện thoại trên tay anh, còn giơ sang cho tôi nhìn, sau đó giơ ngón tay cái, cố gắng vận dụng vốn tiếng Anh hết sức kém cỏi của cậu ấy khen một câu:
“Beautiful.”
Cô gái có khuôn mặt trái xoan cực kỳ sắc nét, cái mũi cao và đôi mắt sâu vô cùng đặc trưng của vùng Trung Đông. Nhưng không giống Sarl, đôi mắt cô ấy có màu xanh lục bảo, trong trẻo như nước hồ Kawaguchi mùa xuân. Trong bức ảnh, cô ấy mỉm cười, lộ ra một bên lúm đồng tiền rất duyên. Sarl cũng có một bên lúm đồng tiền như thế.
“Anh quen cô ấy lâu chưa?”
Lần này anh thoáng ngẩn người. Không biết anh nghĩ tới cái gì, rốt cuộc hồi lâu sau anh mới nhún vai, trông anh hơi bất đắc dĩ.
“Tôi mới gặp cô ấy một lần duy nhất.”
Tôi đặt dao dĩa xuống, đứng dậy rời khỏi bàn.
“Ủa chị đi đâu vậy?”
“Lấy thêm trà thôi.”
Chỉ một lần duy nhất. Vậy mà. Duy nhất.
***
Mie hẹn tôi ở Icho Namiki, đại lộ lá vàng cực kỳ nổi tiếng. Đã hai tháng Mie không thay avatar trên instagram, và vì mùa đông đã sắp tới, nên chị ấy vô cùng muốn có một bức ảnh xinh đẹp lưu lại mùa thu này.
Icho Namiki nằm đâu đó giữa những tòa nhà văn phòng và khu kinh doanh sầm uất của Aoyama và công viên Meiji Jingu, thường được biết đến là một trong những con đường đẹp nhất của Tokyo. Xuống tàu ở ga Aoyama Itchome, đi bộ chỉ chừng năm phút, tôi đã nhác thấy những hàng ngân hạnh tỉa hình chóp nón vàng rực rỡ trong nắng. Có một lễ hội đang được tổ chức ở quảng trường lớn cuối đường, nơi dẫn vào Phòng trưng bày và tưởng niệm Meiji (Minh Trị), vì thế trên đại lộ dày đặc khách tham quan bao gồm cả người Nhật và người nước ngoài. Tôi rốt cuộc tìm thấy Mie trên một vỉa hè gần đó. Cây bạch quả được trồng hai bên vìa hè khéo léo đan những cành cây con vào nhau tạo thành một hàng mái vòm vàng ươm. Mie đứng ở một chỗ vắng người, đang cố gắng giơ một chiếc lá vàng lên để chụp ảnh tự sướng.
“Em! Cuối cùng em cũng đến. Chụp ảnh cho chị.”
“Có mỗi mình chị thôi à? Em tưởng chị đi cùng Zhang?”
“Nó phải làm thêm đến 7 giờ tối, nên chị em mình cứ đi chơi thôi. Bao giờ nó về thì mình đi ăn nhé.”
Tôi không phản đối. Dù sao tôi cũng không phải là người có lập trường trong vấn đề ăn uống vui chơi cứ để cho Mie quyết định là được rồi.
“Dạo này em đi làm ít thế?”
“Chị đừng nói chuyện, hơi cúi xuống đi. Dạo này em hơi mệt, đang không biết có nên đi tìm việc mới không nữa.”
Mie chụp xong kiểu ảnh, đổi sang dáng đứng khác.
“Sao thế? Vất vả quá à? Hay là em tìm thử công việc nào gần nhà mình thôi. Chị thấy đầy chỗ tuyển người. Tiệm Onigiri dưới phố đi bộ lương những ngàn mốt một giờ đó.”
“Kiểu này không đẹp, hay chị xoay nghiêng người đi, một xíu thôi. Chắc phải qua đợt này mới tìm việc được. Em còn phải tập trung viết xong luận văn trước kỳ nghỉ lễ Noel.”
“Ừ, vậy cũng được. Có cần chị với Zhang giúp gì không? Số liệu của em ổn rồi chứ?”
“Em sửa đề tài rồi chị, giáo sư cũng đồng ý.”
“Vậy còn anh bạn kia của em thì sao? Anh bạn người Hồi giáo ấy?”
Tôi trả điện thoại cho Mie, xoay người chạy về phía trước mấy bước.
“Chẳng sao cả, anh ấy sắp lấy vợ rồi.”
Cho nên, tôi cũng không biết lúc ấy Mie có biểu cảm thế nào.
“Chị… chụp cho em một tấm ảnh ở góc này, giống như lúc nãy em chụp cho chị được không? Em chỉ cần lấy bóng lưng thôi.”
Lát sau chị ấy gọi:
“Được rồi, em xem thử đi xem có được không? Không thì chụp lại.”
Chỉ là bóng lưng mà thôi, có gì mà không được chứ? Mie lại hỏi:
“Nhưng mà An này, tại sao lần nào đi chụp ảnh em cũng chỉ chụp từ đằng sau?”
Tôi chỉ cho Mie đường hầm lá vàng đẹp nín thở trước mắt, hỏi:
“Chị có thấy cảnh tượng này giống cái gì không?”
Chị ấy lắc đầu. Tôi chẳng mong chờ gì ở khối kiến thức xã hội của Mie cả, đến đảo Hải Nam ở đâu chị ấy cũng không biết – song, vẫn là đột nhiên muốn hỏi.
“Mùa thu vàng của Levitan đấy.”
Mie nghĩ nghĩ một lúc, lập tức quên mất câu chuyện về chàng trai Hồi giáo:
“Mùa thu vàng là cái gì? Levitan là ai?”
…
“Anh biết không? Hà Nội mùa thu, cũng có những con đường ngập sắc lá vàng. Khi anh tới, em dắt anh đi xem hết.”
Như mọi lần, tôi đón anh ở đầu phố Quang Trung. Nửa năm không gặp, Huy gầy đi nhiều, khuôn mặt cũng sạm lại. Tôi biết thời gian này công việc của anh rất bận rộn, phải khó khăn lắm mới có thể sắp xếp thời gian bay ra Hà Nội. Huy nói rằng vì anh đã không thể trải qua sinh nhật hai mươi tuổi của tôi, vậy anh muốn cùng tôi ngắm Hà Nội vào những ngày đẹp nhất.
Chúng tôi dừng xe ở một quán café bụi trên phố Phan Đình Phùng. Chị chủ quán cho chúng tôi hai chiếc ghế đẩu và một cái bàn bé con con, ngồi ngay trên vỉa hè xao xác lá sấu rụng. Huy tự gọi một ly đen đá, còn của tôi là một tách trà Dilmah bạc hà.
Chiều thứ Hai, nữ sinh trường Phan Đình Phùng ríu rít tan học. Những tà áo dài trắng phấp phới giữa đám lá vàng bay, xen vào vô vàn những tiếng cười đùa không một chút tạp niệm. Thấy Huy chống tay ngắm nghía thật lâu, tôi bèn cười hỏi:
“Đẹp không?”
Anh nghiêng đầu sang phía tôi, tủm tỉm đáp:
“Không đẹp bằng em.” – Nói đoạn anh dừng một lát, băn khoăn hỏi – “An này, trước đây em đi học, có mặc đồng phục áo dài không?”
“Không có. Trường em dùng đồng phục vest kiểu Hàn Quốc. Hết ba năm phổ thông, có lẽ mặc áo dài đúng một lần.” – Tôi lắc đầu – “Nhiều lúc đi học ở một ngôi trường quá hiện đại cũng chưa chắc đã tốt. Trong tưởng tượng của em, những năm phổ thông nên là bảng đen phấn trắng, một ngôi trường cổ kính sơn vàng, có sân trường rợp bóng cây xà cừ cổ thụ kia. Lớp em có một cô nàng học giỏi dịu dàng, lớp bên lại có một anh bạn mặc sơ mi trắng. Nếu như có thể mỗi chiều lại thấy anh bạn ấy chở cô nàng về nhà trên một chiếc xe đạp, thì không còn gì tốt bằng…”
Huy khuấy cốc đen đá một cách chăm chú, chờ tôi nói hết.
“Nhưng mà… không có gì cả. Năm em vào phổ thông, trường em chuyển đến cơ sở mới, một tổ hợp gạch, sắt và lồng kính rộng, đẹp, hiện đại, cái gì cũng có, chỉ không có cây xanh. Đương nhiên là vế đằng sau càng không có.”
Anh bật cười.
“Khi nào em tới Sài Gòn, anh mang em đến trường của anh. Nghe mọi người nói trường xây từ thời thuộc Pháp. Có kiến trúc cổ kính, có cả cây cổ thụ, chắc chắn là em sẽ thích. Năm đó bọn anh thường đứng trên tầng, thấy cô nào mặc áo dài xinh xinh dưới sân là sẽ gấp máy bay giấy thả xuống. Anh cũng từng thả máy bay giấy cho một cô…”
“Rồi người ta có đồng ý anh không?”
Huy không giấu tôi, anh gật đầu.
“Có.”
“Vậy thì tốt hơn em rồi. Hồi phổ thông em thích một bạn cùng lớp, thích liền sáu năm, thích từ cấp hai đến tận lúc vào đại học. Nhưng mà đến tận bây giờ người ta vẫn không biết.”
“Ủa, vậy sao em còn không tỏ tình?”
Tôi bất đắc dĩ nhìn anh:
“Người ta đã có bạn gái.”
Huy đột nhiên nín lặng. Anh nhìn tôi, nhìn rất lâu, nhìn đến nỗi như muốn nhấn chìm tôi vào đôi mắt đen huyền của anh ấy.
“Thực ra em đâu cần phải như vậy?”
Năm ấy tôi, một cô sinh viên năm thứ ba không muốn lớn, đâu có nghĩ gì nhiều.
“Nhưng em chính là như vậy đấy.”